Mùa xuân bình yên

Thứ Sáu, 4 tháng 2, 2022

• KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ • KHOA HỌC & ĐỜI SỐNG

 9 thói quen sống khoa học giúp tăng cường trí thông minh

(Dân trí) - Đọc, viết, tập thể dục hay thậm chí là... tung hứng là những thói quen sống được khoa học chứng minh là sẽ rèn luyện trí thông minh theo một cách nhất định.

Trí thông minh hay trí năng được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau bao gồm khả năng logic, trừu tượng, sự hiểu biết, tự nhận thức, học tập, có trí tuệ xúc cảm, trí nhớ, kế hoạch và giải quyết vấn đề. Mặc dù rất khó để cảm nhận, nhưng khoa học đã chứng minh rằng bạn thực sự có thể trở nên thông minh hơn bằng cách thường xuyên rèn luyện một số thói quen nhất định. 

1.Viết

Trong thời đại ngày nay, với sự xuất hiện của các thiết bị thông minh, thì việc viết tay dần được xem nhẹ. Tuy nhiên trong một phỏng vấn với tạp chí Forbes, tiến sĩ Jordan Peterson chia sẻ việc viết tay giúp mọi người xử lý thông tin một cách kỹ càng hơn, giúp khơi gợi nhiều trải nghiệm từ quá khứ, và định hướng tư duy, nhận thức, hành động, cảm xúc ở hiện tại tốt hơn

Cụ thể, viết tay giúp chúng ta cụ thể hóa những suy nghĩ của mình. Nó có thể cung cấp cho chúng ta định hướng và làm cho mọi thứ trở nên rõ ràng hơn, trái ngược với những suy nghĩ trừu tượng lởn vởn trong não của chúng ta.

2.Đọc

Năm 1990, trong cuộc phỏng vấn của The Seattle Times, tỷ phú Bill Gates cho biết: "Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, tôi sẽ dành ra 1 tiếng để đọc sách. Nó trở thành một thói quen không thể thiếu trong cuộc sống của tôi". Và rất nhiều CEO nổi tiếng khác cũng có thói quen tương tự.

Đọc là một cách tuyệt vời để đạt được kiến thức về một chủ đề. Khi so sánh với việc xem truyền hình, đọc sách được cho là mang lại kiến thức cao hơn. 

3.Tập thể dục

Mặc dù không rõ ràng là nó ảnh hưởng trực tiếp đến trí thông minh của một người, nhưng tập thể dục thực sự là một trong những thói quen tốt nhất để trở nên thông minh hơn. 

Nhiều chứng minh khoa học cho thấy khi đạt được nỗ lực về thể chất có thể khiến bạn hạnh phúc hơn và nâng cao tâm trạng của bạn, do đó có thể khiến bạn trở nên thông minh,  nhạy bén hơn.

4.Nghe nhạc

Rất nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, việc được học âm nhạc từ lúc 4 tuổi đã giúp Wolfgang Amadeus Mozart - một thiên tài âm nhạc của thế giới, phát triển trí thông minh và tài năng âm nhạc của mình.

Trên thực tế, người ta sử dụng rất nhiều thuật ngữ "hiệu ứng Mozart" để nói về việc học âm nhạc từ sớm, giúp các bé phát triển chỉ số IQ, trở nên thông minh hơn, dù chưa thực sự chứng minh được rằng tất cả các loại âm nhạc đều có ảnh hưởng đến việc hình thành cấu trúc và chức năng thần kinh.

5.Trò chơi điện tử

Trò chơi điện tử thực sự có thể giúp người chơi trở nên thông minh hơn, nhanh nhẹn hơn, dù không phải tất cả. 

Thực tế cho thấy nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã phát triển các trò chơi điện tử nhất định để rèn luyện tư duy logic, giải đố cũng như phản xạ, khả năng thích ứng với từng môi trường cụ thể của người chơi.

6.Học một ngôn ngữ mới

Khoa học chứng minh rằng việc học một ngôn ngữ mới sẽ thúc đẩy cách suy nghĩ của con người. Nó đã được chứng minh là ảnh hưởng đến cấu trúc của một số khu vực bên trong thùy não, từ đó khai thác khả năng tiềm ẩn của não.

7.Chơi cờ vua

Cờ vua là một trò chơi đơn giản nhưng lại sử dụng các chiến lược rất phức tạp. Các chuyên gia dạy cờ từ lâu đã phát hiện ra rằng trò chơi thể thao này giúp trẻ cư xử thông minh hơn, tập trung tốt hơn và có tư duy logic. Nó cũng đặc biệt tốt với trẻ tự kỷ hay rối loạn hành vi.

Với những trẻ bị rối loạn phát triển, việc giỏi cờ vua thường chứng tỏ một trí thông minh đặc biệt nào đó. Trẻ tự kỷ cũng thường giỏi hơn bạn cùng lứa trong môn thể thao này, còn những trẻ bị các trục trặc hành vi như rối loạn tăng hoạt động giảm chú ý thì nhờ cờ vua mà cải thiện khả năng tập trung.

8.Thiền định

Các nghiên cứu cho thấy thiện định là một thói quen có thể giúp bạn cải thiện đáng kể trí thông minh mềm cũng như chỉ số IQ tổng quát.

Bên cạnh đó, thiền định cũng tốt cho sức khỏe sinh lý, giúp giảm căng thẳng, cải thiện tâm trạng và thiết lập một trạng thái cân bằng cảm xúc.

9.Tung hứng

Mặc dù nghe có vẻ hoang đường, nhưng học cách tung hứng có thể giúp não bộ của chúng ta nhận biết chuyển động thị giác và phối hợp tay và mắt, giúp phản xạ nhạy bén hơn.

Trong một thí nghiệm năm 2009, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng tung hứng gia tăng chất trắng giúp cải thiện khả năng vận động và thị giác, các sợi liên kết tế bào thần kinh trong thùy đỉnh - vùng não kết nối các sự việc chúng ta thấy với cách chúng ta tác động đến chúng.

Nguồn Dân trí – Minh Khôi

 TRUYỆN VUI SƯU TẦM TỪ TRẦN VĂN NHUNG - Clịck VÀO ĐƯỜNG LINK

https://youtu.be/TufkFaH_V1Y

 

 

Thứ Ba, 1 tháng 2, 2022

BIGGER BOOKBOARD - LEARN TO SMILE IN ADVERTISEMENTS


TỦ SÁCH SONG NGỮ

HỌC CÁCH MỈM CƯỜI TRONG NGHỊCH CẢNH

Đời người khó tránh khỏi những khó khăn và nghịch cảnh. Cách đối mặt với chúng ở mỗi người là khác nhau. Và nụ cười là thứ ngôn ngữ đẹp đẽ nhất trên thế giới này. Nếu một người học được cách mỉm cười trong nghịch cảnh thì họ sẽ không bao giờ bị khó khăn đánh bại. Họ vĩ đại hơn nhiều so với một người chùn bước trước gian khó. Một người có thể mỉm cười trước mọi sự không như ý chính là ứng cử viên của thành công. Nụ cười giữa khó khăn chính là sức mạnh lớn lao nhất.

Trước những khó khăn, chúng ta nên có lòng biết ơn và tin tưởng rằng dù gặp bất cứ điều gì lúc này thì chỉ cần nở một nụ cười chúng ta nhất định sẽ thoát khỏi gông cùm này

Bạn đừng quá xem trọng thành hay bại, đừng ngủ say trong chiến thắng và cũng đừng sa lầy trong thất bại. Hãy mỉm cười chào đón thành công và cũng đối mặt với thất bại với một nụ cười tươi tắn.

Một khi học được cách mỉm cười trước nghịch cảnh, bạn sẽ nhận ra rằng cuộc sống trở nên thật dễ dàng, mọi đau khổ đều là một trải nghiệm tuyệt vời trước nụ cười.

(Trích sách Điềm tĩnh và nóng giận)

---------------------

🌿ĐIỀM TĨNH VÀ NÓNG GIẬN - Cuốn sách giúp bạn kiểm soát tâm trạng nhưng vẫn được là chính mình.

 

BIGGER BOOKBOARD

LEARN TO SMILE IN ADVERTISEMENTS

Human life is hard to avoid difficulties and adversities. The way to deal with them is different for each person. And smile is the most beautiful language in this world. If a person learns to smile in the face of adversity, they will never be defeated by difficulty. They are much greater than a person who falters in the face of hardship. A person who can smile at everything that doesn't go his way is a candidate for success. A smile in the midst of difficulty is the greatest strength.

In the face of difficulties, we should be grateful and believe that no matter what we face right now, just by smiling, we will definitely get out of this shackles.

Don't take success or failure too seriously, don't sleep in victory, and don't get bogged down in failure. Welcome success with a smile and also face failure with a smile.

Once you learn to smile in the face of adversity, you will realize that life is so easy, all suffering is a wonderful experience before a smile.

(Excerpt from Calm and Anger)

---------------------

 COOL AND HOT - The book helps you control your mood but still be yourself.

HỌC CÁCH MỈN CUỒI TRONG NGHỊCH CẢNH

https://youtu.be/mxh3hH7LAJc

 

Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2022

RỒI ĐẾN MỘT NGÀY

 Ngày 30/4/1975 đánh dấu 30 năm Dân chủ cộng hòa kháng chiến thành công. 30 năm ấy, có biết bao Anh hùng, chiến sỹ hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc, nhưng cũng có bao nhiêu người ở chiến tuyến bên kia không bao giờ trở lại. Vì quan điểm chính trị, cũng có khi vì nhiều lý do khác, hàng triệu người bỏ nước ra đi. Đường di tản trăm bề gian khổ. Định cư ở nước thứ ba, tay trắng, họ làm lại từ đầu. Mang theo phong tục tập quán quê hương, họ cũng mang đến những tư tưởng, việc làm xấu xa mà đâu đâu cũng có. Ông Nguyễn Ngọc Ngạn, viết truyện “Rồi đến một ngày” lột tả những thói xấu mang theo của những người di tản. Việt Nam tôi, bao giờ cho hết được những tật xấu này. Độc giả cùng nghe ông, bà Nguyễn Cao Kỳ Duyên đọc chuyện.

Đường liên kết của video RỒI ĐẾN MỘT NGÀY

https://youtu.be/gKBcjgZjImc

 

Thứ Ba, 25 tháng 1, 2022

HẠNH PHÚC QUANH TA

 

Ta chỉ sống một cuộc đời thực sự

Khi biết yêu và trân quý chính mình

Bỏ sau lưng những nỗi niềm sầu hận

Biết mỉm cười chào đón ánh bình minh

Ta còn sống mà nghĩ mình bất hạnh

Là đã thua muôn triệu triệu con người

Nếu ta biết lạc quan mà nghĩ ngợi

Muôn triệu người còn ước được như ta

Và ta chỉ sống cuộc đời ý nghĩa

Khi yêu thương tràn ngập trái tim mình

Bởi ta biết dẫu mùa về rất lạnh

Thì trong lòng vẫn ấm áp an yên

Ta đừng sống chỉ như là tồn tại

Phí thanh xuân phí cả một cuộc đời

Cứ căm ghét bản thân mình vậy mãi

Thì kiếp người là bể khổ mà thôi.

              Sưu tầm Hạnh Phúc quanh ta.

I only live a real life

When you know how to love and appreciate yourself

Leaving behind the sadness

Know how to smile to greet the dawn

I'm alive and I think I'm unhappy

Is to have lost millions of millions of people

If we can think optimistically

Millions of people still wish to be like me

And I just live a meaningful life

When love fills my heart

Because we know that even though the season comes it's very cold

Then the heart is still warm and peaceful

Don't live just as if you exist

Youth fee wastes a life

Keep hating yourself

Then human life is just suffering.

Google dịch.

Đường liên kết của video TỦ SÁCH SONG NGỮ

https://youtu.be/z-1uOMBpwww

 

Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2022

TIẾNG VÀ CHỮ VIỆT

 1--- TIẾNG VIỆT - TIẾNG MẸ ĐẺ QUÊ TA

“Tiếng mẹ đẻ" là ngôn ngữ mẹ đẻ của một người - tức là ngôn ngữ được học từ khi sinh ra. Còn được gọi là ngôn ngữ thứ nhất, ngôn ngữ chính. Ngôn ngữ mẹ đẻ và tiếng mẹ đẻ không nhất thiết phải đồng nghĩa. 

Các nhà ngôn ng hc và giáo dc đương đi thường s dng thut ng L1 đ ch ngôn ng th nht hoc tiếng mẹ đẻ (tiếng mẹ đẻ) và thuật ngữ L2 để chỉ ngôn ngữ thứ hai hoặc ngoại ngữ đang được nghiên cứu.

Sử dụng thuật ngữ 'Tiếng mẹ đẻ'

Thuật ngữ 'tiếng mẹ đẻ' ... biểu thị không chỉ ngôn ngữ người ta học từ mẹ của mình, mà còn là ngôn ngữ chủ đạo và ngôn ngữ quê hương của người nói; tức là, không chỉ là ngôn ngữ đầu tiên theo thời gian tiếp thu, nhưng điều đầu tiên liên quan đến tầm quan trọng của nó và khả năng của người nói trong việc nắm vững các khía cạnh ngôn ngữ và giao tiếp của nó. Ví dụ: nếu một trường ngôn ngữ quảng cáo rằng tất cả giáo viên của họ là người bản ngữ nói tiếng Anh, chúng tôi rất có thể sẽ phàn nàn nếu sau đó chúng tôi biết được điều đó. các giáo viên có một số ký ức tuổi thơ mơ hồ về thời gian khi họ nói chuyện với mẹ mình bằng tiếng Anh, họ, tuy nhiên, lớn lên ở một số quốc gia không nói tiếng Anh và thông thạo chỉ trong một ngôn ngữ thứ hai. Tương tự như vậy, trong bản dịch lý thuyết, tuyên bố rằng một người chỉ nên dịch sang tiếng mẹ đẻ của một người trên thực tế là một tuyên bố rằng người ta chỉ nên dịch sang ngôn ngữ đầu tiên và ngôn ngữ chính của một người.

"Sự mơ hồ của thuật ngữ này đã khiến một số nhà nghiên cứu khẳng định ... rằng các ý nghĩa nội hàm khác nhau của thuật ngữ 'tiếng mẹ đẻ' thay đổi tùy theo mục đích sử dụng của từ này và sự khác biệt trong cách hiểu thuật ngữ này có thể có ảnh hưởng sâu rộng và thường mang tính chính trị. kết quả."

20 tiếng m đẻ hàng đầu

"Tiếng m đ ca hơn ba t người là mt trong 20 tiếng: Quan Thoi, Tây Ban Nha, Anh, Hindi, Rp, B Đào Nha, Bengali, Nga, Nht, Java, Đc, Ngô Trung Quc, Hàn Quc, Pháp, Telugu, Marathi, Th Nhĩ Kỳ , Tamil, Vit Nam và Urdu. Tiếng Anh là ngôn ng ca Pháp ca thi đi k thut s và nhng người s dng nó như mt ngôn ng th hai có th đông hơn s người bn ng hàng trăm triu người.  mi lc đa, mi người đang t b ngôn ng ca t tiên đ ly ngôn ng thng tr ca đa s khu vc ca h. Đng hóa mang li nhng li ích không th chi cãi, đc bit khi vic s dng internet ngày càng gia tăng và thanh niên nông thôn b thu hút đến các thành ph. Nhưng s mt mát ca các ngôn ng truyn cho thiên niên k, cùng vi ngh thut và vũ tr lun ca đc đáo ca h, có th có hu qu đó s không được hiu cho đến khi nó là quá mun đ đo ngược chúng."

(Thurman, Judith. 'Mt Mt cho Words.' Các New Yorker , ngày 30 tháng 3 năm 2015.)

Ở Việt Nam, tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt hay còn gọi là tiếng Kinh. Nhiều vùng miền còn tiếng Ê đê, tiếng Mường, tiếng Mán…

Ngôn ngữ của một dân tộc là một quá trình rất lâu dài từ hàng vạn năm đến hàng ngàn năm phát triển. Tôi luôn nghi ngờ các nhà khảo cổ học và lịch sử quy định sự phát triển của một dân tộc với thước đo vài ngàn năm. Để có được một tiếng mẹ đẻ một tộc người cần xuyên qua quãng thời gian không ngắn như thế. Ngôn ngữ không phải là các ký hiệu chỉ vật chất hay ý thức nào đó, nếu thế chúng ta đã học ngoại ngữ rất dễ dàng, trái lại ngoài tiếng mẹ đẻ của mình ra không ai có thể thạo một tiếng mẹ đẻ thứ hai, mà chỉ có thể giỏi một hoặc nhiều ngoại ngữ. Ngôn ngữ chính là biểu cảm tâm hồn và trời đất quy định tâm hồn ta thuộc về một dân tộc nhất định. Ngay cả một đứa trẻ lớn lên với nhiều tiếng nói xung quanh, nó vẫn thường nằm mơ bằng một ngôn ngữ, và trong thầm thì và im lặng của tâm thức chỉ có duy nhất một tiếng mẹ đẻ. (Tia sáng)

Từ tiếng mẹ đẻ Việt Nam, chúng ta đã đi tìm hình con chữ của mình. Từ chữ Tầu (Chữ Hán, chữ Trung Quốc), chữ Nôm rồi đến chữ Quốc Ngữ hiện nay. Nên nhớ rằng chữ Quốc Ngữ của chúng ta là chữ duy nhất ở châu Á được viết theo chữ cái hệ Latinh. Điều này đã giúp các thế hệ người Việt tiếp cận nhanh hơn với thế giới văn minh thời đại Intrenet 4.0 này.

Công đó thuộc về ai?

2--- CHỮ VIỆT - NIỀM TỰ HÀO CỦA DÂN TỘC

A/ CHA ALEXANDRE DE RHODES - GIÁO SĨ ĐẮC-LỘ - KHAI SINH CHỮ QUỐC NGỮ

Linh Mục Alexandre de Rhodes - giáo sĩ Đắc-Lộ - sinh năm 1591. Một số sử liệu khác ghi năm 1593.

Năm 1651, chữ Quốc Ngữ do Cha Alexandre de Rhodes (giáo sĩ Đắc-Lộ) cưu mang, chính thức ra đời tại nhà in Vatican. Đó là cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA.

Nhân dịp cử hành 300 năm ngày qua đời của Cha Đắc-Lộ, nguyệt san MISSI(Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale) do các Cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, dành trọn số tháng 5 năm 1961 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc-Lộ, nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ nói chung và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng.

Cha Đắc-Lộ qua đời ngày 5-11-1660, tại thành phố Ispahan, bên Ba-Tư, tức là sau 15 năm chính thức bị trục xuất khỏi Việt Nam.

Nguyệt san MISSI nói về công trình khai sinh chữ quốc ngữ với tựa đề: ”Khi cho Việt-Nam các mẫu tự La-tinh, Cha Alexandre de Rhodes đưa Việt-Nam đi trước đến 3 thế kỷ”.

Tiếp đến, tờ MISSI viết:

... Khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, Cha Alexandre de Rhodes đã giải phóng nước Việt Nam. ... Thật vậy, giống như Nhật-Bản và Triều-Tiên, người Việt-Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều-Tiên mới chế biến ra chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.

... Trong khi đó, người Tàu của Mao-Trạch-Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La-tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn Cha Alexnadre de Rhodes Đắc-Lộ, tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ!

... Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng Cha Đắc-Lộ khởi xướng ra chữ quốc ngữ. Trước đó, các Cha Thừa Sai dòng Tên người Bồ-Đào-Nha ở Macao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La-tinh rồi. Tuy nhiên, Cha Đắc-Lộ là người đưa công trình chế biến chữ quốc ngữ đến chỗ kết thúc vĩnh viễn và thành công, ngay từ năm 1651, là năm cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA chào đời. Đây cũng là năm sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Và cuộc khai sinh diễn ra tại Roma, nơi nhà in Vatican. Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình.

... Đã từ lâu đời, người Việt Nam viết bằng chữ Tàu, hoặc bằng chữ Nôm, do họ sáng chế ra. Nhưng đa số người Việt Nam không thể đọc và viết được chữ Tàu, vì theo lời Cha Đắc-Lộ, Tàu có đến 80 ngàn chữ viết khác nhau. Các nhà truyền giáo đầu tiên khi đến Việt Nam, bắt đầu dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Khi Cha Đắc-Lộ đến Việt Nam, có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi. Vì thế, có thể nói rằng, công trình sáng tạo ra chữ quốc ngữ trước tiên là công trình chung của các Nhà Thừa Sai tại Việt Nam. Nhưng khi chính thức in ra công trình khảo cứu chữ viết tiếng Việt của mình, là cùng lúc, Cha Đắc-Lộ khai sinh ra chữ viết này, ban đầu được các Nhà Truyền Giáo sử dụng, sau đó, được toàn thể dân tộc Việt-Nam dùng và biến nó thành chữ quốc ngữ. Tất cả các nước thuộc miền Viễn Đông từ đó ước ao được có chữ viết cho quốc gia mình y như chữ quốc ngữ này vậy!

(Trên đây là phần trích dẫn từ nguyệt san MISSI).

Về phần Cha Đắc-Lộ, chính Cha viết về ngôn ngữ của một dân tộc mà Cha rất mộ mến như sau:

- Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế! Thêm vào đó, tôi thấy hai Cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có Cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của Cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai Cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài giảng bằng tiếng Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người thông dịch lại.

... Đức Chúa GIÊSU ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ”Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước THIÊN CHÚA là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì THIÊN CHÚA sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế .. Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy .. Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Luca 6,20-23/27-35).

(”MISSI” (Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale), Mai/1961, trang 147-173)

                                                       Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

TIẾNG VÀ CHỮ VIỆT

 

B/ VUA THÀNH THÁI ĐI ĐẦU TRONG CẢI CÁCH GIÁO DỤC BẰNG VIỆC BAN HÀNH SẮC LỆNH KHUYẾN KHÍCH HỌC CHỮ QUỐC NGỮ!

* Lũ bội tình với tiền nhân lếu láo giở trò bẻ cong lịch sử.

1/ Vua Thành Thái, 1879-1954, tên khai sanh là Nguyễn Phước Bửu Lân 阮福寶嶙. Nhân đây, lại phải nhắc: có hai cách đọc Phước / Phúc, có hai cách đọc Bửu / Bảo. Hãy tôn trọng, đừng giở trò kệch cỡm, bất lịch sự là sửa tên cha sanh mẹ đẻ của người ta thành "Phúc"..., rồi tuyên truyền cho các thế hệ sau nhiễm cái thói tùy tiện sửa tên!

Chính vua Thành Thái của Nhà Nguyễn là người ĐI ĐẦU trong công cuộc cải cách giáo dục, khuyến khích học CHỮ QUỐC NGỮ!

Đó là nhận định được rút ra từ khảo luận ""Emperor Thành Thái's Educational Revolution" của sử gia Liam Kelley (công bố năm 2006). Theo đó, trong tàng thư lưu trữ của Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên cho thấy: VÀO NĂM 1906, HOÀNG ĐẾ THÀNH THÁI ĐÃ SỚM BAN HÀNH MỘT SẮC LỆNH LÀ KHUYẾN KHÍCH GIẢNG DẠY "NAM ÂM" (CHỮ QUỐC NGỮ)!

Sắc lệnh này vô cùng quan trọng, vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại và sĩ phu PHẢI THOÁI KHỎI HÁN HÓA trong giáo dục, văn hóa, và nhứt là tư tưởng!

Sắc lệnh của vua Thành Thái cho dạy Quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ Quốc ngữ.

3/ Vua Thành Thái là người đạo Công giáo? Không phải. Nhà vua theo đạo Phật.

Vua Thành Thái theo Pháp? Không phải, mà ngược lại là đàng khác. Vua Thành Thái là nhà vua yêu nước, chống Pháp, năm 1907 bị Pháp ép thoái vị, bị quản thúc đến năm 1916 thì bị đày sang đảo Réunion.

4/ Cần phải nhắc lại rằng: Chữ Quốc ngữ được thành hình từ những thập niên đầu thế kỷ 17, là do nhu cầu trong "nhà Đạo" (rao giảng việc thờ phượng Chúa Jesus), với mục đích khiêm tốn là phổ biến trong các giáo xứ mà thôi. Bên ngoài xã hội VN thì vẫn là chữ Hán, chữ Nôm.

Chính giới trí thức, đặc biệt là hoàng đế Thành Thái nhận ra GIÁ TRỊ của CHỮ QUỐC NGỮ (chứa được "Nam âm"), nên đã mượn lấy bộ chữ này - lưu hành trong "nhà Đạo" - để phổ biến rộng rãi cho các tầng lớp trong xã hội VN.

Chữ Hán không chứa được "Nam âm" (tiếng nói của người nước Nam, âm thuần Việt), thành thử vua Thành Thái đẩy mạnh việc thoát khỏi ảnh hưởng của chữ Hán là vì vậy.

Chữ Nôm chứa được "Nam âm", nhưng quá khó để học (tỉ lệ mù chữ Nôm, thời xưa, chiếm gần đến 95%).

5/ Trên nước Nam yêu dấu của tất cả chúng ta, giờ đây, bỗng dưng nảy nòi lũ bội tình với chữ Quốc ngữ.

Lũ bội tình hè nhau mắc bịnh mất trí nhớ nên quên béng rằng chính HOÀNG ĐẾ THÀNH THÁI, một nhà vua yêu nước và là người theo đạo Phật, đã thúc đẩy việc giảng dạy CHỮ QUỐC NGỮ (là bộ chữ do các vị giáo sĩ đạo Công giáo sáng tạo nên).

Lũ bội tình, nói cho chính xác hơn, là họ đang cố tình bẻ cong lịch sử!./.

Matthew NChuong 3 tháng 1 lúc 23:06  · 

 

NHỮNG TRUYỆN VUI VỀ TIẾNG VIỆT

       1… TRUYỆN TOÀN T

Tô Tuấn thất tình (13/6/2021)

Tô Tuấn thương tiểu thơ Trương Thanh Thanh trọn tám tuần trăng. Tuấn thấy Thanh Thanh thật thà, thẳng thắn, thân thể trắng trẻo, thon thon tươi tắn tuyệt trần. Thêm tài thù tiếp tiếng Tây thật thông thạo. Trai tráng trong thành, từ ta tới Tây, tất thảy tán thưởng tấm tắc. Tuấn thấy thích, toan tỏ tình thì thấy trái tim tự thẹn thẹn, Tuấn trịnh trọng tìm tới Thắng, thủ thỉ tâm tình, Thắng tủm tỉm:

- Tốt thôi! Tớ thấy Tuấn tinh thông, tiểu thơ Tuấn thương thực tốt, tính tình trung thực. Thân thể tuyệt tác, theo tớ thì… Tây thua. Tuy thế, tớ thành thật trách Tuấn thiếu tinh thần thẳng thắn tiến tới. Theo tớ, thương tiểu thơ thì Tuấn tức tốc tỏ tình, tiến thẳng tới trung tâm trái tim tiểu thơ. Tiểu thơ thoái thác thì thôi. Truyền thống trai tráng tỉnh ta từ trước thì thế tuốt. Tuy thế, tớ tính, Tuấn trẻ trung, thành thật thương Thanh Thanh thì tất thắng thôi!

Thấy Thắng thường trầm tĩnh, tính toán thận trọng, Tuấn tán thành. Thôi, thế thì tỏ tình!

Tối thứ tư. Trời trong trẻo. Trăng thượng tuần treo trên tháp trắng tuyết. Thấy thời tiết thuận tiện, Tuấn tắm táp tinh tươm, thấp thỏm tới thăm tiểu thư Trương Thanh Thanh.

Tiếc thay, trái tim Thanh Thanh thừa tỉnh táo tới thiếu tự tin. Thành thử, Thanh Thanh tìm tiểu thuyết trinh thám tự trấn tĩnh trái tim, thỉnh thoảng tủm tỉm theo từng tình tiết trong truyện. Trông tức thật! Tuấn thấy tẽn tò. Tình thế thực trớ trêu. Tiến thì trơ. Thoái thì tẽn. Thoáng tiếng Thắng trong tiềm thức. Thắng trách thiếu tinh thần thừa thắng tiến tới. Thôi thì tiến. Tuấn tới trước Thanh Thanh, thẽ thọt:

- Thưa tiểu thư, thú thực, tôi thầm thương tiểu thư từ tám tuần trăng trước, thuở tiểu thư tới thăm Thắng, tiện thể trả tôi tập thơ Thâm Tâm. Thấy tiểu thư, trái tim tôi thổn thức. Tôi thấy tôi thật trơ trọi. Trước tiểu thư, tôi tưởng tôi thành thằng thừa. Thấy tiểu thư, tôi thấy trái tim thiếu thốn. Thiếu tiểu thư, thiếu tất thảy. Tính tình tôi trở thành thất thường… từ thuở trông thấy tiểu thư.

Thanh Thanh thoáng thẹn thùng:

- Tuấn thích tôi thì Tuấn tưởng thế. Thực tình, tôi thường thôi!

- Thường thôi? -Tuấn tiến tới.- Trời! Tôi thì tôi thấy tiểu thư thật thần tiên.

- Tôi thường thôi. Tầm thường trong tất thảy tiểu thư tầm thường.

- Thì tiểu thư tầm thường! Tuy thế, tôi thích. Tôi thích tiểu thư, tại tiểu thư tầm thưòng. Trái tim tôi tầm thường thì tôi tìm tới trái tim tầm thưòng, thế thôi!

Thanh Thanh thoáng thấy tưng tức. Tuấn thiếu tinh tế tối thiểu, tỏ tình thật trắng trợn. Thấy Thanh Thanh thủ thế, Tuấn thận trọng, thẽ thọt:

- Tôi trực tính, tiểu thư tha thứ! Thấy tiểu thư tự ti thế thì tôi trêu tức thế thôi. Thực tình, thân thể tiểu thư tươi tắn tựa thiên thần. Trái tim thì trong trắng. Tấm thân thế, trái tim thế, tiểu thư trao thằng tậm tịt thì thú thực, tôi tiếc. Tôi thành thực tiếc. Thành thử tôi…

- Thôi, thôi, Tuấn! -Thanh Thanh thẹn thẹn- Tuấn thì tốt thôi. Tôi thành thật trân trọng Tuấn. Tuy thế, trước Tuấn, tôi thấy thật trẻ thơ, thiếu từng trải. Tôi trân trọng Tuấn, tôn thờ Tuấn, thế thôi…

Thanh Thanh thẳng thắn thoái thác Tuấn, tại Thanh Thanh trẻ trung, “thiếu từng trải”. Thực tình, trái tim Thanh Thanh thuộc Tiến, thực tập tại trung tâm tính toán. Thời trai trẻ, Tiến từng tham trận, thăng tới tận thiếu tá. Tại thương tật, Tiến trở thành thợ tiện tài tình, tiền tiêu thừa thãi. Thanh Thanh thích Tiến từ thuở thiếu thời. Thành thử, Thanh Thanh thấy Tuấn thân thể thì thô thiển, tính tình thì trâng tráo. Trước Tuấn, Thanh Thanh toàn tơ tưởng tới Tiến. Thỉnh thoảng, Thanh Thanh thảo thư tình. Trái tim Thanh Thanh theo thư, tới tay Tiến, tiếp tục thề thốt. Tuấn tức tối tới tận tim, toan tìm Tiến, tạt tai. Thấy tình trạng thảm thiết thế, Thắng tới tận tai Tuấn, thì thào:

- Thôi thôi! Theo tớ, tạt tai Tiến, trước tiên, thiếu tôn trọng Thanh Thanh, tổn thất tình thân thiện, tiếng tăm truyền trong thành, tới tất thảy. Truyện tày trời. Thôi, theo tớ thì thôi thôi!

Tuấn tha Tiến. Tuy thế, tối tối tơ tưởng tới Thanh Thanh, trái tim Tuấn tiếp tục thổn thức. Tuấn thất thểu tìm tới Thắng.

- Thất tình thì tang thương thật! – Thắng thành thực – Tất thảy tại Tuấn thôi. Tuấn thiếu thận trọng, thành thô thiển. Tỏ tình thì Tuấn tất thua.

Trong trường tình, Tuấn tỉnh táo trông thời tiết, thay tư trang. Tiểu thư thích tinh tế thì Tuấn tinh tế, thích thiết thực thì thiết thực. Thích thơ, tặng thơ. Thích truyện, tặng truyện. Tuần trước tớ thấy Thanh Thanh tìm tập thơ Thâm Tâm. Theo tớ Thanh Thanh thích thơ Thâm Tâm.

- Thơ Thâm Tâm thì tài, tuy thế thiếu tính tư tưởng. Thanh Thanh thích tí thôi! -Tuấn thủng thẳng- Thời trước thì tất thảy thích thơ, tìm thơ. Thời ta, tiền trên tất. Thơ thành thứ thừa thãi, Thanh Thanh thích trinh thám.

- Thế thì tìm truyện trinh thám tặng Thanh Thanh. Trong tủ tớ toàn trinh thám. Trinh thám Tây, trinh thám Tàu, trinh thám ta. Tất thảy tám tập. Tớ tặng Tuấn tất. Tuấn tìm Thanh Thanh, trao tận tay.

Tuấn thấy tâm trí thật thư thái. Thắng tốt thật, tận tụy thật. Tuấn thấy tự tin. Thắng tủm tỉm:

- Thời trai trẻ thì tranh thủ tung tẩy. Trao tấm thiếp thì thành thằng tù. Ta tự tù ta. Thế thì tranh thủ thời trai trẻ thôi. Thuở trẻ trung, tớ tán tỉnh tứ tung. Tiểu thư tiếp thì tới. Tiểu thư thoái thì tránh. Thuở trước, tớ tán Trần Thị Tuyết Trinh. Tán tới tấp. Thoạt tiên thị thủng thỉnh. Thủng thỉnh tới tinh tướng. Tinh tướng thì thôi. Tớ tút. Thấy tớ tếch thẳng, thị tiếc. Thị thấy thị thường thôi. Tức thì, thị tìm tới tớ, thút tha thút thít. Thế. Thói thường, theo tình thì tình trốn, trốn tình thì tình theo. Theo tớ, trong trường tình, trốn tí, theo tí. Thế thì thắng!

- Tài thật! Tài tới thế thì thôi! Tuấn thảng thốt. Thắng thật từng trải. Tiếng Thắng thủng thẳng:

- Tiếp tục tiến! Tuần tới, Tuấn tìm Thanh Thanh, tặng tiểu thuyết trinh thám. Tuấn trao tận tay, tiện thể tiến tới thơm Thanh Thanh. Thơm thật từ từ, thật trí thức.

Trước Tuấn, thầy Thắng thật thông tuệ. Từng trải tới thế thì thánh thật. Tuấn thấy tâm trí thơi thới, tự tin. Trời tối, Tuấn tìm tới Thanh Thanh:

- Tôi tặng Thanh Thanh tiểu thuyết trinh thám. Trời, tuyệt tác! Thám tử trong truyện…

- Thôi thôi Tuấn. Tuần tới tôi thi. Thành thử, tôi tập trung thi…

Tám tập trinh thám trơ trẽn trên tay Tuấn. Tuấn tức tưởi:

- Tiểu thư thẳng thắn thoái thác, tôi thật…

- Thì tôi thành thật thưa trước Tuấn thế. Tôi thiết tưởng Tuấn thấu tỏ…

- Tốt thôi -Tuấn tức tối- Tiểu thư thoái thác thì thôi, tôi tự tử!

Tiếng Tuấn thảng thốt. Thanh Thanh thấy thương tâm. Trông Tuấn thật tiều tụy. Trái tim Thanh Thanh thoáng thổn thức. Tức thì trí tuệ Thanh Thanh thì thầm: “Tỉnh táo tí, tiểu thư! Trai tráng trong thành, từ ta, Tây tới Tàu, tất thảy thế tuốt. Thề thốt, thẽ thọt. Tin theo thì thành tro tàn. Theo ta tiểu thư tỉnh táo thương tiểu thư thôi. Tự thương thân. Thế thôi. Ta thành thật tin tưởng tiểu thư tỉnh táo!”. Tức thì Thanh Thanh tủm tỉm:

- Tốt thôi! Tôi thấy Tuấn tròn trĩnh, treo trên tháp thì tuyệt. Tuấn tự tử, tôi thờ!

Tuấn thấy tức thở, toan tháo thân. Thảm thiết thay, tuyết trút tới tấp. Trăng tròn treo trong tuyết, trông trơ trọi, tong tả tựa thằng thất tình. Tuấn thất thểu tìm tới thầy thuốc:

- Trọn tháng trời, tôi trằn trọc, thao thức. Tại thời tiết tam toạng. Trái tim tôi thì trái tính. Thành thử tôi thao thức, trằn trọc…

- Trí thức thì thức, thế thôi -thầy thuốc thủng thẳng- Tim tốt, thận tốt. Toàn thân tốt. Thiếu tí ti tình thôi!…

Tuấn tìm thuốc tự tử. Tiếc thay, thầy thuốc Tàu tỉnh táo, trao toàn thuốc trợ tim, thuốc tâm thần, thuốc tránh thai, thuốc… tăng trọng. Thành thử, thân thể Tuấn tròn trịa, tiếp tục tròn trịa. Trái tim tươi tốt, tiếp tục tươi tốt thêm. Trái tim thôi thúc Tuấn tương tư Thanh Thanh ...

Sưu tầm (Không biết tên Tác giả)