Mùa xuân bình yên: TIẾNG VÀ CHỮ VIỆT

Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2022

TIẾNG VÀ CHỮ VIỆT

 1--- TIẾNG VIỆT - TIẾNG MẸ ĐẺ QUÊ TA

“Tiếng mẹ đẻ" là ngôn ngữ mẹ đẻ của một người - tức là ngôn ngữ được học từ khi sinh ra. Còn được gọi là ngôn ngữ thứ nhất, ngôn ngữ chính. Ngôn ngữ mẹ đẻ và tiếng mẹ đẻ không nhất thiết phải đồng nghĩa. 

Các nhà ngôn ng hc và giáo dc đương đi thường s dng thut ng L1 đ ch ngôn ng th nht hoc tiếng mẹ đẻ (tiếng mẹ đẻ) và thuật ngữ L2 để chỉ ngôn ngữ thứ hai hoặc ngoại ngữ đang được nghiên cứu.

Sử dụng thuật ngữ 'Tiếng mẹ đẻ'

Thuật ngữ 'tiếng mẹ đẻ' ... biểu thị không chỉ ngôn ngữ người ta học từ mẹ của mình, mà còn là ngôn ngữ chủ đạo và ngôn ngữ quê hương của người nói; tức là, không chỉ là ngôn ngữ đầu tiên theo thời gian tiếp thu, nhưng điều đầu tiên liên quan đến tầm quan trọng của nó và khả năng của người nói trong việc nắm vững các khía cạnh ngôn ngữ và giao tiếp của nó. Ví dụ: nếu một trường ngôn ngữ quảng cáo rằng tất cả giáo viên của họ là người bản ngữ nói tiếng Anh, chúng tôi rất có thể sẽ phàn nàn nếu sau đó chúng tôi biết được điều đó. các giáo viên có một số ký ức tuổi thơ mơ hồ về thời gian khi họ nói chuyện với mẹ mình bằng tiếng Anh, họ, tuy nhiên, lớn lên ở một số quốc gia không nói tiếng Anh và thông thạo chỉ trong một ngôn ngữ thứ hai. Tương tự như vậy, trong bản dịch lý thuyết, tuyên bố rằng một người chỉ nên dịch sang tiếng mẹ đẻ của một người trên thực tế là một tuyên bố rằng người ta chỉ nên dịch sang ngôn ngữ đầu tiên và ngôn ngữ chính của một người.

"Sự mơ hồ của thuật ngữ này đã khiến một số nhà nghiên cứu khẳng định ... rằng các ý nghĩa nội hàm khác nhau của thuật ngữ 'tiếng mẹ đẻ' thay đổi tùy theo mục đích sử dụng của từ này và sự khác biệt trong cách hiểu thuật ngữ này có thể có ảnh hưởng sâu rộng và thường mang tính chính trị. kết quả."

20 tiếng m đẻ hàng đầu

"Tiếng m đ ca hơn ba t người là mt trong 20 tiếng: Quan Thoi, Tây Ban Nha, Anh, Hindi, Rp, B Đào Nha, Bengali, Nga, Nht, Java, Đc, Ngô Trung Quc, Hàn Quc, Pháp, Telugu, Marathi, Th Nhĩ Kỳ , Tamil, Vit Nam và Urdu. Tiếng Anh là ngôn ng ca Pháp ca thi đi k thut s và nhng người s dng nó như mt ngôn ng th hai có th đông hơn s người bn ng hàng trăm triu người.  mi lc đa, mi người đang t b ngôn ng ca t tiên đ ly ngôn ng thng tr ca đa s khu vc ca h. Đng hóa mang li nhng li ích không th chi cãi, đc bit khi vic s dng internet ngày càng gia tăng và thanh niên nông thôn b thu hút đến các thành ph. Nhưng s mt mát ca các ngôn ng truyn cho thiên niên k, cùng vi ngh thut và vũ tr lun ca đc đáo ca h, có th có hu qu đó s không được hiu cho đến khi nó là quá mun đ đo ngược chúng."

(Thurman, Judith. 'Mt Mt cho Words.' Các New Yorker , ngày 30 tháng 3 năm 2015.)

Ở Việt Nam, tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt hay còn gọi là tiếng Kinh. Nhiều vùng miền còn tiếng Ê đê, tiếng Mường, tiếng Mán…

Ngôn ngữ của một dân tộc là một quá trình rất lâu dài từ hàng vạn năm đến hàng ngàn năm phát triển. Tôi luôn nghi ngờ các nhà khảo cổ học và lịch sử quy định sự phát triển của một dân tộc với thước đo vài ngàn năm. Để có được một tiếng mẹ đẻ một tộc người cần xuyên qua quãng thời gian không ngắn như thế. Ngôn ngữ không phải là các ký hiệu chỉ vật chất hay ý thức nào đó, nếu thế chúng ta đã học ngoại ngữ rất dễ dàng, trái lại ngoài tiếng mẹ đẻ của mình ra không ai có thể thạo một tiếng mẹ đẻ thứ hai, mà chỉ có thể giỏi một hoặc nhiều ngoại ngữ. Ngôn ngữ chính là biểu cảm tâm hồn và trời đất quy định tâm hồn ta thuộc về một dân tộc nhất định. Ngay cả một đứa trẻ lớn lên với nhiều tiếng nói xung quanh, nó vẫn thường nằm mơ bằng một ngôn ngữ, và trong thầm thì và im lặng của tâm thức chỉ có duy nhất một tiếng mẹ đẻ. (Tia sáng)

Từ tiếng mẹ đẻ Việt Nam, chúng ta đã đi tìm hình con chữ của mình. Từ chữ Tầu (Chữ Hán, chữ Trung Quốc), chữ Nôm rồi đến chữ Quốc Ngữ hiện nay. Nên nhớ rằng chữ Quốc Ngữ của chúng ta là chữ duy nhất ở châu Á được viết theo chữ cái hệ Latinh. Điều này đã giúp các thế hệ người Việt tiếp cận nhanh hơn với thế giới văn minh thời đại Intrenet 4.0 này.

Công đó thuộc về ai?

2--- CHỮ VIỆT - NIỀM TỰ HÀO CỦA DÂN TỘC

A/ CHA ALEXANDRE DE RHODES - GIÁO SĨ ĐẮC-LỘ - KHAI SINH CHỮ QUỐC NGỮ

Linh Mục Alexandre de Rhodes - giáo sĩ Đắc-Lộ - sinh năm 1591. Một số sử liệu khác ghi năm 1593.

Năm 1651, chữ Quốc Ngữ do Cha Alexandre de Rhodes (giáo sĩ Đắc-Lộ) cưu mang, chính thức ra đời tại nhà in Vatican. Đó là cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA.

Nhân dịp cử hành 300 năm ngày qua đời của Cha Đắc-Lộ, nguyệt san MISSI(Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale) do các Cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, dành trọn số tháng 5 năm 1961 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc-Lộ, nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ nói chung và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam nói riêng.

Cha Đắc-Lộ qua đời ngày 5-11-1660, tại thành phố Ispahan, bên Ba-Tư, tức là sau 15 năm chính thức bị trục xuất khỏi Việt Nam.

Nguyệt san MISSI nói về công trình khai sinh chữ quốc ngữ với tựa đề: ”Khi cho Việt-Nam các mẫu tự La-tinh, Cha Alexandre de Rhodes đưa Việt-Nam đi trước đến 3 thế kỷ”.

Tiếp đến, tờ MISSI viết:

... Khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, Cha Alexandre de Rhodes đã giải phóng nước Việt Nam. ... Thật vậy, giống như Nhật-Bản và Triều-Tiên, người Việt-Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều-Tiên mới chế biến ra chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.

... Trong khi đó, người Tàu của Mao-Trạch-Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La-tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn Cha Alexnadre de Rhodes Đắc-Lộ, tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ!

... Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng Cha Đắc-Lộ khởi xướng ra chữ quốc ngữ. Trước đó, các Cha Thừa Sai dòng Tên người Bồ-Đào-Nha ở Macao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La-tinh rồi. Tuy nhiên, Cha Đắc-Lộ là người đưa công trình chế biến chữ quốc ngữ đến chỗ kết thúc vĩnh viễn và thành công, ngay từ năm 1651, là năm cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA chào đời. Đây cũng là năm sinh chính thức của chữ Quốc Ngữ. Và cuộc khai sinh diễn ra tại Roma, nơi nhà in Vatican. Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình.

... Đã từ lâu đời, người Việt Nam viết bằng chữ Tàu, hoặc bằng chữ Nôm, do họ sáng chế ra. Nhưng đa số người Việt Nam không thể đọc và viết được chữ Tàu, vì theo lời Cha Đắc-Lộ, Tàu có đến 80 ngàn chữ viết khác nhau. Các nhà truyền giáo đầu tiên khi đến Việt Nam, bắt đầu dùng mẫu tự La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Khi Cha Đắc-Lộ đến Việt Nam, có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi. Vì thế, có thể nói rằng, công trình sáng tạo ra chữ quốc ngữ trước tiên là công trình chung của các Nhà Thừa Sai tại Việt Nam. Nhưng khi chính thức in ra công trình khảo cứu chữ viết tiếng Việt của mình, là cùng lúc, Cha Đắc-Lộ khai sinh ra chữ viết này, ban đầu được các Nhà Truyền Giáo sử dụng, sau đó, được toàn thể dân tộc Việt-Nam dùng và biến nó thành chữ quốc ngữ. Tất cả các nước thuộc miền Viễn Đông từ đó ước ao được có chữ viết cho quốc gia mình y như chữ quốc ngữ này vậy!

(Trên đây là phần trích dẫn từ nguyệt san MISSI).

Về phần Cha Đắc-Lộ, chính Cha viết về ngôn ngữ của một dân tộc mà Cha rất mộ mến như sau:

- Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế! Thêm vào đó, tôi thấy hai Cha Emmanuel Fernandez và Buzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có Cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của Cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai Cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài giảng bằng tiếng Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người thông dịch lại.

... Đức Chúa GIÊSU ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ”Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước THIÊN CHÚA là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì THIÊN CHÚA sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế .. Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy .. Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Luca 6,20-23/27-35).

(”MISSI” (Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale), Mai/1961, trang 147-173)

                                                       Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét