Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có một ca bị phản vệ sau tiêm chủng vaccine COVID-19 của AstraZeneca.
Người bị phản vệ là nữ điều dưỡng 31
tuổi của Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc, Bệnh viện Đà Nẵng.
Bệnh nhân không có tiền sử dị ứng, đã được khám sàng lọc và
tư vấn trước tiêm chủng.
Sau khi tiêm, bệnh nhân bị ù tai, khó thở,
đã được xử lý theo đúng phác đồ và sau đó được cấp cứu tại
Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc Bệnh viện Đà Nẵng. Tình
trạng hiện tại của bệnh nhân: đang an thần thở máy, huyết động
ổn định nhờ các thuốc vận mạch.
Ích lợi và
nguy cơ của tiêm vắc xin
Vắc xin là một công cụ rất hiệu quả trong dự phòng
các bệnh nhiễm trùng. Hiện nay đã có gần 30 bệnh nhiễm trùng có thể dự phòng được
bằng vắc xin. Không giống như các can thiệp y tế khác, vắc xin giúp cho dự phỏng
và bảo vệ sức khỏe cho con người và qua đó góp phần phát triển nguồn nhân lực.
Ngoài việc làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, làm cho trẻ em khỏe mạnh phát
triển thể chất và trí não bình thường, vắc xin còn giảm mắc các bệnh khác, giảm
số ngày ốm và nhập viện, giảm chi phí chăm sóc y tế, đặc biệt giảm thời gian và
công sức của phụ nữ do không phải chăm sóc trẻ bị bệnh cũng như làm giảm số trẻ
sinh ra do không phải lo trẻ bị ốm và chết, góp phần nâng cao sức khỏe của
phụ nữ, giảm tình trạng tàn phế hay mất khả năng lao động do bệnh tật gây nên.
Ngoài ra tiêm chủng còn giúp bảo vệ sức khỏe cho cả người lớn như vắc xin phòng
cúm, phòng viêm màng não do não mô cầu, phòng ung thư gan, ung thư cổ tử cung.
Bên cạnh những ích lợi trực tiếp và gián tiếp của vắc xin trong việc làm giảm tỷ
lệ mắc và tử vong của các bệnh nhiễm trùng, nó còn có những tác động lâu dài
cho cá nhân và cộng đồng, như tăng khả năng và năng suất lao động do không bị ốm
đau. Tóm lại việc đầu tư cho tiêm chủng dự phòng bằng vắc xin là đầu tư cho
phát triển.
Nhờ có Vắc xin, thế giới đã thanh toán được bệnh đậu
mùa. Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ đã xếp tiêm chủng mở rộng
(TCMR) đứng thứ 4 trong 10 thành tựu lớn nhất về y tế công cộng của thế kỷ 20.
Bệnh bại liệt hiện chỉ còn lưu hành ở 4 nước, số trẻ chết vì bệnh sởi năm 2007
giảm 78% so với năm 2000, số trẻ chết vì viêm gan B, viêm phổi, viêm màng não
do Hib hàng năm giảm đi 2,5 triệu trẻ sau khi nhiều nước triển khai đưa vắc xin
viêm gan B và Hib vào chương trình TCMR sau năm 2000. Thập kỷ đầu tiên của thế
kỷ 21 được coi là thập kỷ thành công nhất của lịch sử phát triển vắc xin. Các vắc
xin mới là vắc xin viêm màng não do não mô cầu, vắc xin phế cầu phòng viêm phổi,
vắc xin rota phòng tiêu chảy và phòng vi rút HPV gây ung thư cổ tử cung. Theo tổng
kết của Liên minh toàn cầu về vắc xin và Tiêm chủng (GAVI), trong thập kỷ vừa
qua vắc xin viêm gan B và Hib được đưa vào chương trình TCMR ở nhiều nước đang
phát triển đã góp phần dự phòng cho 5 triệu trẻ em khỏi bị tử vong vì các bệnh
nhiễm trùng nhờ tiêm vắc xin. Cùng với các hoạt động nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống y tế, sự tăng đầu tư nguồn lực và kinh phí, với việc đưa thêm các
vắc xin mới vào chương trình TCMR (vắc xin phế cầu phòng viêm phổi, vắc xin
rota phòng tiêu chảy và các vắc xin khác như sốt vàng, não mô cầu, viêm não Nhật
Bản, rubela, thương hàn, HPV....). Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) ước tính rằng
nếu tất cả các vắc xin sẵn có hiện nay đều được sử dụng rộng rãi trên thế giới
với tỷ lệ bao phủ cao trên 90%, hàng năm dự phòng 2-3 triệu trẻ em nữa không bị
chết vì các bệnh nhiễm trùng, góp phần đạt được mục tiêu của thiên niên kỷ làm
giảm hai phần ba số trẻ em chết dưới 5 tuổi vào năm 2015 so với năm 1990.
Chương trình TCMR ở Việt Nam được bắt đầu chính thức
từ năm 1985 với việc triển khai tiêm 6 mũi vắc xin cơ bản cho tất cả trẻ em dưới
1 tuổi là lao, bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván và sởi. Năm 1997 bổ sung
thêm vắc xin thứ 7 là viêm gan B, và năm 2010 bổ sung thêm vắc xin thứ 8 là vắc
xin Hib. Các vắc xin khác được dùng ở các vùng có nguy cơ cao cho trẻ trên 1 tuổi
là vắc xin viêm não Nhật bản, tả, thương hàn. Trong nhiều năm liên tục tỷ lệ
tiêm chủng đầy đủ ở trẻ em đều đạt trên 90%. Thực tế và kinh nghiệm của Chương
trinh Tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam trong hơn 25 năm qua, và ở các nước trên thế
giới cho thấy rõ là tiêm chủng là biện pháp hiệu quả nhất để phòng bệnh. Thành công của công tác TCMR đã đem
lại hiệu quả rõ rệt, làm thay đổi về cơ bản cơ cấu bệnh tật ở trẻ em. Bằng
tiêm chủng vắc xin, tỷ lệ mắc bệnh của nhiều bệnh nhiễm trùng có vắc xin dự
phòng đã giảm đi hàng chục đến hàng trăm lần. Chúng ta đã thanh toán được bệnh
đậu mùa vào cuối những năm 70, bại liệt vào năm 2000, loại trừ được uốn ván sơ
sinh vào năm 2005 và đang tiến tới loại trừ sởi và khống chế viêm gan B trong
vài năm tới. Tỷ lệ mắc các bệnh thuộc tiêm chủng trên 100.000 dân nếu so sánh
năm 2010 với năm 1984 thấy: Bệnh Bạch hầu giảm 585 lần, Ho gà giảm 937 lần, Uốn
ván sơ sinh giảm 59 lần, Sởi giảm 573 lần. Sau 25 năm triển khai chương trình
TCMR ở Việt Nam, ước tính dự phòng cho 6,7 triệu trẻ khỏi mắc bệnh và 43.000 trẻ
khỏi bị tử vong do các bệnh lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván, và sởi. Có thể
nói đây là một trong những thành tựu lớn nhất mà ngành y tế Việt Nam đã đạt được
trong những năm qua trong bối cảnh Việt Nam còn là một nước nghèo thu nhập bình
quân đầu người còn thấp. Thông qua việc triển khai thành công chương trình tiêm
chủng mở rộng và các chương trình y tế khác, Việt Nam đã giảm đáng kể tỷ lệ tử
vong ở trẻ dưới 5 tuổi và đang tiến tới đạt được mục tiêu thứ tư của thiên niên
kỷ vào năm 2015 (Giảm hai phần ba tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trong giai
đoạn 1990-2015). Thành tích này đã được bạn bè quốc tế ca ngợi
và khâm phục, và đã được GAVI vinh danh về thành tích suất sắc trong việc làm
giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em tại Hội nghị của GAVI tại Hà Nội tháng 11/2009.
Mục tiêu của tiêm chủng
để bảo vệ cá nhân và cộng đồng khỏi các bệnh truyền nhiễm phòng được bằng
vắc xin. Mặc dù vắc xin là an toàn, nhưng không phải hoàn toàn không có
nguy cơ; phản ứng sau tiêm chủng (PƯSTC) có thể sẽ xuất hiện sau sử dụng vắc
xin. Một số người gặp các PƯSTC khác nhau từ phản ứng nhẹ, thông thường đến phản
ứng hiếm gặp, nghiêm trọng, đe dọa tính mạng. Hầu hết các trường hợp PƯSTC nặng
chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên với bệnh lý sẵn có của trẻ. Một số trường hợp
PƯSTC có thể do vắc xin hoặc do sai sót trong việc bảo quản, vận chuyển, sử dụng,
chỉ định và tiêm chủng vắc xin. Cho dù nguyên nhân của PƯSTC là gì, nó làm cho
mọi người lo lắng, từ chối tiếp tục tiêm chủng cho con của họ, dẫn đến trẻ em dễ
bị mắc bệnh truyền nhiễm hơn và thậm chí là đe dọa tính mạng.
Vắc xin là sản
phẩm sinh học dùng để tiêm chủng cho các cá thể để tạo ra miễn dịch chủ động bảo
vệ chống lại một căn bệnh cụ thể. Vắc xin tương tác với hệ thống miễn dịch và
thường tạo ra một đáp ứng miễn dịch tương tự như tạo ra bởi các nhiễm trùng tự
nhiên, nhưng không gây bệnh hoặc các biến chứng tiềm tàng cho người nhận. Nhiều
yếu tố có thể ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch khi tiêm chủng. Chúng bao gồm sự
có mặt của kháng thể mẹ, bản chất và liều lượng kháng nguyên, đường dùng và sự
có mặt của một chất hấp phụ (ví dụ như phức hợp có chứa nhôm) được thêm vào để
tăng cường miễn dịch của vắc xin. Các yếu tố như tuổi, yếu tố dinh dưỡng, di
truyền và bệnh tật đang mắc phải cũng có thể ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch
sau tiêm vắc xin. Mỗi vắc xin có chứa loại vi sinh vật gây bệnh, hoặc một phần
của nó, và thường có hai dạng sống giảm độc lực hoặc bất hoạt (chết) của vi
sinh vật, hoặc kháng nguyên độc tố hoặc một trong các protein bề mặt của nó. Vắc
xin có thể là đơn giá hoặc đa giá. Một vắc xin đơn giá có chứa một chủng duy nhất
của một kháng nguyên duy nhất (ví dụ vắc xin sởi), trong khi một loại vắc xin
đa giá có chứa hai hoặc nhiều chủng/ type huyết thanh của kháng nguyên (Ví dụ vắc
xin bại liệt). Vắc xin phối hợp có chứa từ hai kháng nguyên trở lên (ví dụ như
DTwP, DTP-HepB-Hib). Lợi thế tiềm năng của loại vắc xin phối hợp bao gồm việc
giảm chi phí bảo quản và quản lý so với các vắc xin đơn giá, giảm chi phí số lần
đi tiêm chủng, cải thiện sự kịp thời của tiêm chủng, và tạo thuận lợi cho việc
bổ sung các loại vắc xin mới vào chương trình tiêm chủng. Không có bằng chứng
nào cho thấy tiêm cáckháng nguyên trong vắc xin kết hợp làm tăng gánh nặng cho
hệ thống miễn dịch. Hệ thống này có khả năng đáp ứng hàng triệu kháng nguyên tại
một thời điểm. Kết hợp kháng nguyên thường không làm tăng nguy cơ phản ứng bất
lợi và trên thực tế, dẫn đến giảm tổng thể các phản ứng bất lợi.
Phản ứng sau tiêm chủng
(PƯSTC) là bất kỳ sự kiện sức khỏe nào xảy ra sau tiêm chủng và không nhất thiết
phải có mối quan hệ nhân quả với việc sử dụng vắc xin. PƯSTC nhẹ là một sự kiện
không phải là "nghiêm trọng" và không là nguy cơ tiềm ẩn đối với sức
khỏe của người được tiêm chủng. PƯSTC nặng là một sự kiện gây ra một nguy cơ tiềm
ẩn đối với sức khỏe và tính mạng của người được tiêm vắc xin dẫn đến phải nhập
viện, di chứng tàn tật hoặc tử vong khi sinh. Trong năm 2012, Hội đồng các tổ
chức quốc tế về khoa học y học (CIOMS) và TCYTTG đã phân loại nguyên nhân
cụ thể của PƯSTC như sau:
- Phản ứng liên
quan đến vắc xin: Là phản ứng gây ra do một hoặc nhiều thành phần của vắc xin.
Nó cũng là phản ứng của từng cá thể với đặc tính vốn có của vắc xin, ngay cả
khi vắc xin đã được sản xuất, bảo quản, vận chuyển và chỉ định một cách chính
xác.
- Phản ứng liên
quan đến sai sót tiêm chủng: Phản ứng liên quan đến sai sót tiêm chủng gây ra bởi
việc bảo quản, vận chuyển, chỉ định và tiêm chủng vắc xin không đúng.
- Phản ứng liên quan
đến lo lắng khi tiêm chủng: Là phản ứng xảy ra do sự lo lắng về tiêm chủng.
- Sự kiện trùng hợp
ngẫu nhiên: Là phản ứng gây ra bởi một nguyên nhân khác không phải là do vắc
xin, do sai sót tiêm chủng hay do lo lắng khi tiêm chủng, mà là do bệnh lý sẵn
có của trẻ.
- Không rõ nguyên
nhân: Nhiều trường hợp PƯSTC không tìm được nguyên nhân do thiếu các thông tin
có liên quan đến các nguyên nhân đã nêu ở trên.
Phản ứng sau
tiêm có thể được phân loại thành phản ứng phổ biến, nhẹ hoặc phản ứng hiếm gặp,
nghiêm trọng. Hầu hết các phản ứng vắc xin là nhẹ và tự khỏi. Phản ứng nghiêm
trọng là rất hiếm gặp. Mục đích việc tiêm vắc xin là để tạo ra miễn dịch chủ động
để dự phòng bệnh. Phản ứng tại chỗ, sốt và các triệu chứng khác là một phần của
phản ứng miễn dịch. Ngoài ra, một số thành phần của vắc xin (ví dụ như tá dược
nhôm, chất ổn định, chất bảo quản) có thể gây ra phản ứng. Một vắc xin có chất
lượng và an toàn sẽ có các phản ứng được giảm tới mức tối thiểu trong khi tạo
ra đáp ứng miễn dịch tốt nhất có thể. Phản ứng tại chỗ bao gồm đau, sưng và/hoặc
đỏ tại chỗ tiêm và có thể chiếm khoảng 10% số đối tượng đã được tiêm chủng, trừ
tiêm DTwP, hoặc uốn ván, những vắc xin có đến 50% có thể có các phản ứng này.
BCG gây ra phản ứng tại chỗ bắt đầu như một sẩn da cam, hai hoặc nhiều tuần sau
tiêm sẽ trở thành vết loét và lành sau vài tháng, để lại một vết sẹo. Những
phản ứng hệ thống bao gồm sốt chiếm tới khoảng 10% đối tượng được tiêm chủng,
trừ DTwP chiếm khoảng một nửa số trẻ được tiêm. Những phản ứng thông thường
khác (ví dụ như khó chịu, mệt mỏi, chán ăn) cũng có thể xảy ra sau khi tiêm vắc
xin DTwP. Với vắc xin sống giảm độc lực như sởi/MMR và OPV, các phản ứng toàn
thân gây ra từ nhiễm vi rút vắc xin. Vắc xin sởi gây ra sốt, phát ban và/hoặc
viêm kết mạc, và xảy ra ở 5-15% đối tượng được tiêm. Biểu hiện bệnh là rất nhẹ
so với bệnh sởi "tự nhiên". Tuy nhiên, đối với người suy giảm miễn dịch
nghiêm trọng, nó có thể trở lên nghiêm trọng, thậm chí gây tử vong. Phản ứng với
vắc xin quai bị (viêm, sưng tuyến mang tai) và rubella (đau khớp và sưng hạch bạch
huyết) gặp ở ít hơn 1% trẻ được tiêm. Vắc xin Rubella gây ra các triệu chứng
thường xuyên hơn ở người lớn, với 15% bị đau khớp. Những phản ứng do vắc xin Bại
liệt uống ảnh hưởng ít hơn 1% người được uống vắc xin, bao gồm tiêu chảy, nhức
đầu và/hoặc đau cơ bắp.Cần lưu ý rằng các tỷ lệ ghi nhận được là dự kiến phản
ứng vắc xin hoặc đáp ứng với kháng nguyên vắc xin. Tuy nhiên, trong trường hợp
ghi nhận bất kỳ gia tăng đáng kể phản ứng với bất kỳ vắc xin nào, cần điều tra
xác định rõ nguyên nhân.
Tỷ lệ xuất hiện phản ứng
có thể được quan sát với các loại vắc xin thường được sử dụng nhất được liệt kê
trong bảng 1 dưới đây:.
Bảng 1: Các PƯSTC
nhẹ, thông thường (Theo TCYTTG)
Vắc xin |
Phản ứng phụ trại chỗ
(sưng, đỏ, đau) |
Sốt (>38ºC) |
Các triệu chứng
toàn thân, kích thích, khó chịu |
BCG |
90-95% |
- |
- |
Viêm gan B |
Người lớn:15% Trẻ em :5% |
1-6% |
- |
Hib |
5-15% |
2-10% |
- |
Vắc xin cúm bất hoạt |
10-64% |
5-12% |
|
Vắcxin sống
cúm |
|
16-31% |
|
Vắc xin viêm não bất
hoạt |
<4% |
|
<1% |
Vắc xin sống viêm
não |
<1% |
|
|
Sởi/ sởi quai bị rubella |
10% |
5-15% |
5% (ban) |
Bại liệt uống (OPV) |
- |
Dưới 1% |
Dưới 1% |
DTP – ho gà toàn tế
bào4 |
tới 50% |
tới 50% |
tới 60% |
Phế cầu cộng hợp. |
~10% |
~20% <1% (>390C) |
~ 20% |
Phế cầu không cộng
hợp |
50% |
<1% (>390C) |
|
Uốn ván/DT/Td |
~10% 5 |
~10% |
~25% |
Thủy đậu |
7-30% |
|
|
Bảng 2 dưới đây mô tả chi tiết các phản ứng vắc xin
hiếm gặp.
Bảng 2: Phản ứng sau tiêm chủng hiếm gặp (Theo
TCYTTG)
Vắc xin |
Phản ứng |
Thời gian xuất hiện |
Tỷ lệ trên
1.000.000 liều |
BCG |
-Viêm hạch có mủ -Viêm xương BCG -Nhiễm khuẩn BCG
lan tỏa |
2-6 tháng 1-12 tháng 1-12 tháng |
100-1000 1-700 0,19-1,56 |
Hib |
Không |
- |
- |
Viêm gan B |
Sốc phản vệ |
0-1 giờ |
1,1 |
Viêm não Nhật Bản
(bất hoạt) |
Biểu hiện thần kinh
(viêm não, bệnh não, thần kinh ngoại biên) |
- |
1-2.3 |
Sởi/ sởi - quai bị
- rubella/ sởi - rubella |
- Co giật có sốt - Giảm tiểu cầu - Sốc phản vệ - Bệnh não |
6-12 ngày 15-35 gày 0 – 1 giờ 6-12 ngày |
330 30 1 <1 |
Bại liệt uống (OPV) |
Liệt liên quan tới
vắc xin |
4-30 ngày |
2-4 |
Uốn ván |
- Viêm thần kinh
cánh tay - Sốc - Áp xe vô trùng |
2-28 ngày 0-1 giờ 1-6 tuần |
5-10 1-6 6-10 |
Ho gà (DTwP) |
- Khóc thét dai dẳng
>3 giờ - Co giật - Giảm trương lực
cơ, giảm đáp ứng - Sốc phản vệ - Bệnh nãod |
0-24 giờ 0-3 ngày 0-48 giờ 0-1 giờ 0-2 ngày |
< 10.000 <10.000 1000-2000 20 0-1 |
Phản ứng sau tiêm vắc xin 'Nghiêm trọng' và 'nặng' là
phản ứng hiếm gặp thường được sử dụng như nhau nhưng không phải vậy. Một PƯSTC
sẽ được coi là nghiêm trọng nếu nó gây ra tử vong, đe dọa tính mạng, đòi hỏi phải
nhập viện điều trị hoặc kéo dài thời gian nằm viện, làm kéo dài hoặc đáng kể
tình trạng khuyết tật/tàn tật, hoặc đã phải can thiệp để ngăn chặn tổn thương
vĩnh viễn. Phản ứng nặng được sử dụng để mô tả mức độ của một sự kiện cụ thể
(như nhẹ, trung bình hoặc nặng). Ví dụ, sốt là một sự kiện sức khỏe thông thường,
nhưng theo mức độ nghiêm trọng của nó có thể được phân loại như sốt nhẹ hoặc sốt
vừa. Sốc phản vệ luôn luôn là một sự kiện nghiêm trọng và đe dọa tính mạng..).
Hầu hết các phản ứng vắc xin nặng và hiếm gặp (động kinh, giảm tiểu cầu, Hội chứng
giảm trương lực, giảm phản xạ, khóc thét kéo dài) không thành bệnh mãn tính. Sốc
phản vệ, trong khi có khả năng gây tử vong, có thể điều trị mà không để lại bất
kỳ hậu quả nào. Mặc dù bệnh não được nêu lên như là một phản ứng hiếm khi tiêm
chủng vắc xin sởi hoặc vắc xin DTP, tuy nhiên trên thực tế không chắc chắn những
vắc xin này có thể gây bệnh não.
Phản ứng liên quan đến lo lắng tiêm chủng. Cá nhân và
các nhóm người có thể phản ứng với bất cứ việc tiêm chủng nào. Phản ứng này
không liên quan đến loại vắc xin. Ngất xỉu khá phổ biến, nhưng thường chỉ xảy
ra ở trẻ trên 5 tuổi. Ngất xỉu không cần phải xử trí gì ngoài việc đặt bệnh
nhân ở tư thế nằm nghiêng. Khả năng ngất xỉu có thể xảy ra khi tiêm chủng cho
trẻ ở các độ tuổi lớn hơn, và giảm bằng cách giảm thiểu căng thẳng cho người chờ
tiêm, như giảm thời gian chờ đợi, phòng chờ thoáng mát, chuẩn bị vắc xin
không trong tầm nhìn của người được tiêm, và quá trình tiêm chủng đảm bảo riêng
biệt. Thở nhanh thường gặp do lo lắng về tiêm chủng dẫn đến các triệu chứng cụ
thể (choáng váng, chóng mặt, ngứa ran xung quanh miệng và bàn tay). Điều này
cũng phổ biến ở các chiến dịch tiêm chủng. Trẻ nhỏ có xu hướng phản ứng theo một
cách khác, nôn là triệu chứng chung do lo lắng. Ngừng thở có thể xảy ra, có thể
hết sau trong chốc lát. Trẻ cũng có thể hét lên sợ tiêm hoặc bỏ chạy. Lo sợ khi
tiêm có thể dẫn đến co giật trong một số trường hợp. Những trẻ em này không cần
phải được điều tra nhưng phải được bảo đảm an toàn. Một số người sợ kim tiêm,
có thể làm tăng nặng các phản ứng. Trong một nhóm quần thể, phản ứng lan truyền
là có thể, đặc biệt là nếu nhìn thấy một người sau khi được tiêm chủng lả đi
hay có một số phản ứng khác. Giải thích rõ về tiêm chủng và bình tĩnh, tự tin
khi thực hiện tiêm chủng của cán bộ tiêm chủng sẽ giảm mức độ lo lắng về tiêm của
đối tượng được tiêm, và do đó làm giảm khả năng gây ra phản ứng. Điều quan trọng
cần lưu ý là ngất có thể được chẩn đoán nhầm là sốc phản vệ.
Phản ứng có thể xảy ra trùng hợp với tiêm chủng và
đôi khi có thể bị đổ cho là do tiêm chủng vắc xin. Các kết hợp về thời điểm
hoàn toàn là không thể tránh được khi tiêm chủng một số lượng lớn các liều vắc
xin, đặc biệt là trong chiến dịch tiêm chủng. Vắc xin thường được tiêm chủng
trong thời gian đầu đời khi trẻ cũng thường mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh
khác, trong đó có cả những bệnh tật hay tình trạng thần kinh bẩm sinh. Do đó,
có thể gặp rất nhiều sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên, trong đó có cả tử
vong, được đổ cho là do vắc xin do có liên quan với thời điểm sau tiêm chủng.
Ví dụ, hội chứng đột tử trẻ sơ sinh (SIDS) gặp nhiều nhất xung quanh tuổi tiêm
chủng trẻ em. Tuy nhiên, nghiên cứu đối chứng đã chỉ ra rằng sự kết hợp của
SIDS và tiêm chủng là hoàn toàn ngẫu nhiên, không phải là liên quan nhân quả. Sự
kiện trùng hợp ngẫu nhiên có thể dự đoán được. Bảng 3 trình bày số tử vong tạm
thời có liên quan đến tiêm chủng thường xuyên vắc xin DTP ở cho trẻ sơ sinh (dưới
một năm tuổi) ở một số nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương. Sẽ có rất nhiều
tử vong trùng hợp ngẫu nhiên trong ngày, tuần và tháng sau khi tiêm chủng. Số
lượng thực tế ca tử vong trùng hợp ngẫu nhiên phụ thuộc vào quy mô dân số, tỷ lệ
tử vong trẻ sơ sinh, khoảng cách lần tiêm chủng, và tỷ lệ tiêm chủng.
Bảng 3: Số tử vong ước tính do trùng hợp ngẫu
nhiên liên quan đến tiêm chủng DPT ở một số nước trong khu vực Tây Thái Bình
Dương (Theo TCYTTG)
Quốc gia |
Tỷ lệ chết / 1000 trẻ đẻ sống (IMR) |
Số sinh trong năm |
Ước tính số trẻ chết trong năm tại |
||
Tháng sau tiêm chủng |
Tuần sau tiêm chủng |
Ngày sau tiêm chủng |
|||
=(IMR*N/12)*nv*ppv |
=(IMR*N/52)* nv*ppv |
=(IMR*N/365)* nv*ppv |
|||
Úc |
5 |
267.000 |
300 |
69 |
10 |
Campuchia |
69 |
361.000 |
5.605 |
1.293 |
185 |
Trung Quốc |
18 |
18.134.000 |
73.443 |
16.948 |
2421 |
Nhật |
3 |
1.034.000 |
698 |
161 |
23 |
Lào |
48 |
170.000 |
1.836 |
424 |
61 |
Niu Di Lân |
5 |
58.000 |
65 |
15 |
2 |
Phi líp pin |
26 |
2.236.000 |
13.081 |
3.019 |
431 |
Vietnam |
15 |
1.500.000 |
5.062 |
1.168 |
166 |
Chú ý:
IMR:Tỷ lệ chết/1000 trẻ đẻ sống; nv: số liều cần
tiêm của vắc xin (DPT=3)
PPV: tỷ lệ
tiêm chủng (VD 90%)
Tóm lại, PƯSTC có thể
xảy ra do một số đặc tính vốn có của vắc xin (phản ứng liên quan đến vắc xin);
hoặc do phản ứng liên quan đến sai sót tiêm chủng; hoặc do sự kiện trùng hợp ngẫu
nhiên tại cùng thời điểm tiêm vắc xin; hoặc liên quan đến lo lắng khi tiêm chủng,
do sợ hãi hay đau khi tiêm chứ không phải do tiêm chủng. Trong một số trường hợp,
không tìm được nguyên nhân của PƯSTC. Tỷ lệ cơ bản các phản ứng liên quan đến vắc
xin rất hữu ích để hướng tới xác định các phản ứng liên quan vắc xin. Phản ứng
nhẹ do vắc xin là phổ biến và không cần điều trị đặc biệt. Phản ứng vắc xin hiếm,
nghiêm trọng cần phải điều trị kịp thời bởi nhân viên y tế có trình độ.
GS.TS Nguyễn Trần Hiển-Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
NHỮNG NGƯỜI NỔI TIẾNG: Click vào Link dưới đây
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét