Mùa xuân bình yên: BÀI THUỐC 23 - BÁT TRÂN THANG - Bài thuốc Mẹ

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

BÀI THUỐC 23 - BÁT TRÂN THANG - Bài thuốc Mẹ


Chậm kinh, trễ kinh: Dùng ngay bài thuốc Bát trân thang!
HEALTH+ | Chậm kinh, trễ kinh, rối loạn kinh nguyệt không chỉ khiến phụ nữ xanh xao, mệt mỏi, gầy yếu mà còn có thể dẫn tới vô sinh hiếm muộn. Nếu đang phải khốn khổ với chu kỳ kinh nguyệt của mình, bạn nên dùng bài thuốc Bát trân thang.
1/ Bát trân thang vốn là bài thuốc cổ được danh y Tiết Kỷ người Trung Quốc đời nhà Minh phát minh, dựa trên những nguyên lý Đông y, có công dụng bồi bổ khí huyết, phòng chống thiếu máu, điều trị các bệnh sản phụ khoa.
Trong nền y học cổ truyền của nước ta, Bát trân thang là một trong những phương thuốc bổ khí huyết rất thông dụng. Bài thuốc này thường được dùng làm hạt nhân để gia giảm, cấu tạo nên các bài thuốc mới.
Theo phân tích của y học hiện đại, Bát trân thang có tác dụng thúc đẩy quá trình sản sinh hồng cầu, làm tăng lượng huyết sắc tố, từ đó giúp phòng chống tình trạng thiếu máu. Ngoài ra, bài thuốc này còn có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, cải thiện hệ tuần hoàn, điều tiết sự co bóp của tử cung, chống mệt mỏi, bảo vệ gan...
Phân tích bài thuốc Bát trân thang
Bát trân thang gồm có 8 vị thuốc: Đương quy 12gr, Xuyên khung 12gr, Thục địa 20gr, Bạch thược 12gr, Đảng sâm 12gr, Bạch linh 12gr, Bạch truật 12gr, Cam thảo 10gr.
Đây là bài thuốc kinh điển, được kết hợp từ 2 bài thuốc là Tứ quân tử thang (có tác dụng bổ khí) và Tứ vật thang (bổ huyết). Cả hai bài thuốc này kết hợp lại có tác dụng bổ khí bổ huyết. Bởi theo y học cổ truyền, khí là soái của huyết, khí hư dẫn đến huyết hư và ngược lại. Vì vậy, khi sử dụng các thuốc bổ khí thường kết hợp các loại thuốc bổ huyết với nhau.
Bài thuốc Tứ vật thang (bổ huyết): Đương quy có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết. Thục địa có tác dụng tư âm dưỡng huyết. Bạch thược giúp dưỡng huyết điều kinh. Xuyên khung có tác dụng hoạt huyết thông kinh, hành khí giải uất, làm huyết lưu thông, chống huyết ứ trệ.
Như vậy, bài thuốc Tứ vật thang có tác dụng dưỡng huyết, hoạt huyết kiêm cả hành khí, không những điều trị huyết hư mà còn dùng cho cả huyết ứ trệ.
Bài thuốc Tứ quân tử thang (bổ khí): Đảng sâm bổ khí (nguyên khí), có tính cam ôn, dùng trong trường hợp trung khí bị hư, bạch truật khổ ôn để kiện tì vận thấp (hóa thấp) phối hợp với nhau để bổ khí kiện tỳ. Phục linh cam đạm để thẩm thấp kiện tỳ giúp Bạch truật tăng tác dụng hóa thấp, tăng nguồn khí huyết cho cơ thể. Cam thảo giúp bổ khí hòa trung đưa thuốc vào tỳ làm chức năng điều hòa các vị thuốc.
Bài thuốc này giúp bổ khí kiện tỳ mà không gây thấp trệ tăng lên, cơ thể khỏe hơn. Cả 4 vị thuốc kết hợp với nhau có tính hòa hoãn, dễ uống, đều làm ăn ngon, bổ khí.
Ứng dụng bài thuốc Bát trân thang thế nào?
Bài thuốc Bát trân thang chủ yếu vẫn được sử dụng dưới dạng thuốc sắc hoặc viên hoàn mềm. Tuy vậy, việc đi bắt mạch, bốc thuốc, sắc thuốc không phải là vấn đề đơn giản với hầu hết phụ nữ.
Để tiện lợi và an toàn, chị em có thể tìm các loại thuốc được chiết xuất từ bài thuốc này kết hợp với Hương phụ và Trần bì (hai vị thuốc có công dụng hành khí giảm đau, khai uất điều kinh, giúp cho cơ thể lưu thông khí huyết, làm giảm đau), để giúp điều trị rối loạn kinh nguyệt, chậm kinh, trễ kinh, đau bụng kinh...
2/ Nguyên bản bài thuốc: Bát trân thang (Chính thể loại yếu). Đơn vị Grames
Đẳng sâm   16      Bạch truật   12      Bạch linh    12            Cam thảo       6
Qui đầu       12      Thục địa     20      Bạch thược 12      Xuyên khung       8       
Cách dùng:
Sắc nước uống.
Tác dụng:
Ích khí bổ huyết.
Giải thích bài thuốc:
Bài thuốc gồm 2 bài “tứ vật” và “tứ quân” hợp lại thành 1 bài thuốc có tác dụng song bổ khí huyết, trong bài tứ quân bổ khí, bài tứ vật bổ huyết gia thêm sinh khương, đại táo để điều hòa dinh vệ, là 1 bài thuốc thường dùng để bổ khí huyết.

Bài thuốc tứ vật thang
Bài thuốc tứ vật thang được chép trong sách cổ “Hòa tễ cục phương” như sau:
Thành phần:
Thục địa: 12 – 24gr
Bạch thược: 12 – 16gr
Đương quy: 12 – 16gr
Xuyên khung: 6 – 8gr
Cách dùng: Sắc nước uống.
Tác dụng: Bổ huyết điều huyết, hoạt huyết điều kinh.
Bài thuốc Tứ quân tử thang
Thành phần:
Nhân sâm    10g
Bạch truật    9g
Phục linh     9g
Cam thảo     6g
Uống không câu nệ thời gian, cho vào ít muối.  Hiện nay dùng thang sắc uống.
Công dụng
Bổ khí, kiện tỳ.
Chủ trị
Chữa chứng tỳ vị khí hư, vận hóa kém gây sắc mặt trắng bệch, nói nhỏ, ăn kém, ỉa phân nát, tay chân mỏi mệt, chất lưỡi nhạt, mạch tế hoãn.
 Bài thuốc trên có tên Tứ quân tử thang là do 4 vị đều có tính bình hòa, không nhiệt, không táo, có thể dùng lâu mà không gây tác dụng xấu.

Theo các nghiên cứu dược lý hiện đại, Tứ quân tử thang có các tác dụng sau:
- Điều tiết hệ thần kinh thực vật, thúc đẩy hồi phục công năng tiêu hóa và làm lành vết loét.
- Tăng tạo glucogen trong gan, gia tăng năng lượng dự trữ.
- Thúc đẩy công năng tạo huyết của tủy xương.
- Điều chỉnh tuần hoàn huyết dịch.
- Tăng cường chức năng của hệ thống miễn dịch.
- Thúc đẩy công năng của các tuyến nội tiết, lập lại cân bằng thể dịch trong cơ thể.
- Cung cấp các nguyên tố vi lượng như kẽm, sắt, đồng và magiê.
Y học cổ truyền đã bổ sung vào Tứ quân tử thang một số vị kiện tỳ, ích khí khác để tạo thành các bài thuốc sau:
- Chữa thổ tả khó cầm ở trẻ em: Thêm biển đậu, hoắc hương, hoàng kỳ.
- Chữa tỳ vị hư nhược, chán ăn, đầy bụng, thổ tả, tiêu hoá kém: Thêm trần bì.
- Chữa tỳ hư đàm trệ: Thêm bán hạ, trần bì.
- Chữa tỳ vị khí hư, hàn thấp, trệ đọng: Thêm bán hạ, trần bì, sa nhân, mộc hương.
- Trị hư tổn sinh lực, nguyên khí bất túc: Bỏ bạch truật và phục linh, thêm hoàng kỳ, nhục quế.
 - Trị tỳ vị hư nhược, tâm khí bất túc: Thêm biển đậu, hoàng kỳ, sinh khương, đại táo.
Tứ quân tử thang cũng được ứng dụng trong các nghiên cứu lâm sàng hiện đại để chữa các bệnh lý nội khoa, phụ khoa và nhi khoa. Cụ thể là:
- Viêm loét đường tiêu hoá: Thêm trần bì, hoàng kỳ, mộc hương. Bài thuốc này đã được dùng trị liệu cho 38 người mắc các bệnh như viêm dạ dày mạn tính hoặc cấp tính, loét đường tiêu hóa, loét hành tá tràng, sa dạ dày.
- Xuất huyết đường tiêu hóa trên: Thêm đương quy, trần bì, bạch thược, hoàng liên, địa du, đan sâm, tam thất, bạch cập.
- Viêm ruột do nấm: Thêm khổ sâm. Nếu nhiệt nặng thì thêm bạch đầu ông, xuyên hoàng liên; có khí hư thì thêm hoàng kỳ; dương hư thêm phụ phiến, nhục quế; thấp nặng bổ sung ý dĩ, trạch tả; bụng chướng thì thêm chỉ xác, hậu phác.
- Viêm gan mạn tính hoạt động: Thêm hoàng kỳ, áp dụng điều trị cho 40 bệnh nhân có men gan cao, HBsAg dương tính. Sau 4-5 tháng dùng thuốc, tất cả đều có chỉ số men gan trở lại bình thường, 70% có kết quả xét nghiệm HBsAg âm tính.
- Đau đầu: Thêm hoàng kỳ, chế phụ phiến; tuỳ từng trường hợp mà bổ sung các vị khác.
- Nôn mửa ở phụ nữ có thai: Thêm bán hạ, trần bì, trúc nhự, tô ngạnh.
Một nghiên cứu khác kết hợp Tứ quân tử thang với trần bì, bán hạ, tô ngạnh, kê nội kim và hương phụ để trị liệu 52 ca, tất cả đều khỏi sau 1-5 tháng.
- Rong kinh, rong huyết: Thêm hoàng kỳ, hương phụ, đan sâm và đương quy. Hiệu quả trị liệu là 95%.
- U xơ tử cung: Thêm nga truật, tam lăng và ngưu tất. Hiệu quả điều trị sau 2 tháng dùng thuốc là 85%.
- Chán ăn ở trẻ em: Một nghiên cứu của Trung Quốc đã phối hợp Tứ quân tử thang với tân dược chứa kẽm để trị liệu cho 98 bệnh nhân. Đạt hiệu quả 100% sau khi uống 7-15 thang.

3/ Thành phần Bát trân thang (một bài Bát trân thang khác)
Đương quy      10g         Nhân sâm   3g
Xuyên khung    5g         Bạch linh    8g
Bạch thược        8g         Bạch truật 10g
Thục địa          15g         Cam thảo    5g
Cách dùng: nước sạch hai bát, thêm sinh khương 3 lát, đại táo hai quả, sách đến 8 phần, uống trước ăn.
Công dụng
Bổ ích khí huyết.
Chủ trị
Chữa chứng khí huyết lưỡng hư: Sắc mặt trắng nhợt hay vàng nhạt, hồi hộp, ăn kém, chậm tiêu, đoản khí, ngại nói, mệt mỏi, hoa mắt, chúng mặt, nhạt miệng, chất lưỡi bệu nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế mà hư.
Phương giải:
Trên lâm sàng nếu không chỉ là huyết hư mà có cả khí hư thì khí huyết cùng bổ, thì dùng phúc phương – bát trân thang do tứ quân tử thang và tứ vật thang kết hợp mà thành. Đây đều là dạy người ta một phương pháp, một nguyên tắc, trên lâm sàng còn căn cứ cụ thể vào sự cần thiết của bệnh chứng, trong phối ngũ điều chỉnh trọng tâm bổ khí và bổ huyết. Do đó tên gọi tứ quân tử thang, tứ vật thang đều đưa ra một vài ví dụ, giới thiệu quy luật biến hóa của nó hợp lại còn cần suy xét khí hư, huyết hư vấn đề nào là chủ, nếu hai phương diện đều hư như nhau, thì cần khí huyết cùng trọng.
Bát trân thang còn có hai phụ phương, một cái là thập toàn đại bổ hoàn (tôi đã đăng trong bài thuốc số 5), một cái là nhân sâm dưỡng vinh thang. Thập toàn đại bổ hoàn chính là bát trân thang thêm hoàng kỳ nhục quế, đây chính là trong tình trạng khí huyết đều hư, tăng cường bổ khí ôn dương, khiến dương sinh âm trưởng, khiến công năng của bổ huyết thêm mạnh, nên nói là điều trị khí huyết đều hư mà thiên về hàn. Về nhân sâm dưỡng vinh thang mà nói, qua bổ khí chú trọng bổ huyết. Phương tễ này có biến hóa chính là thập toàn đại bổ hoàn bỏ đi Xuyên khung, ngoài ra thêm 3 vị là Viễn trí, Ngũ vị, Trần bì gần giống với quy tỳ thang. Qua vấn đề này tôi muốn nói rõ phần dưới hai điểm, thứ nhất, trong khí huyết hư mà không cần hòa huyết là lý ở đâu, đặc biệt là doanh huyết hư mà trệ, là do huyết hư mà khí cũng hư, hiện nay có bổ khí lại có bổ huyết, nên bỏ đi một vị phương hương mà hành huyết, bất lợi ở xuyên khung bổ huyết. Do huyết hư, khí cũng hư, ở đây cũng có thuốc bổ khí, ngoài nó còn có trần bì, như vậy cùng ý nghĩa với dị công tán, khiến bổ khí mà không ủng, qua bổ khí mà hành khí. So sánh các vị thuốc này và xuyên khung tuy đều là tân ôn, nhưng không táo, đồng thời trực tiếp nhập huyết. Vậy tại sao nhục quế dùng ở đây? Ở đây liên quan đến 1 vấn đề, chính là trung y hay nói, huyết là chỗ nào sinh thành. Trung y trong thực tiễn lần mò ra một kinh nghiệm chính là làm sao “ biến hóa nhi xích thị vị huyết”, là thông qua trung tiêu, tức sự hấp thu của tỳ vị, vận hóa của tỳ, lại thêm quan hệ dương của tâm thận do đó ở đây nói dùng đến nhục quế, mới thêm Viễn trí, Ngũ vị. Từ lý luận trung y, trung tiêu thụ khí thu trấp, đây là thông qua tinh hoa của tỳ vị hấp thu thủy cốc mà nói, tức nhận tinh khí và tinh trấp của thủy cốc, đây là nguyên liệu tạo máu. Khí và trấp của thủy cốc đều không màu đỏ, nhưng thông qua khí hóa, biến hóa mà đỏ. Làm sao biến hóa được? chính là thông qua tác dụng khí hóa của tâm, thận, mệnh môn. Do đó hiện nay phương tễ như vậy dùng điều trị các loại thiếu máu hiệu quả khá tốt.
Vấn đề chủ yếu của bổ huyết có hai trọng điểm, một là nguyên liệu, một là công năng, do đó bản thân ăn uống vào không tốt, không có nguyên liệu tạo máu để hấp thu vào, trong tình trạng như vậy, tuy là thiếu máu, nhưng đầu tiên phải kiện tỳ vị. Nếu như có thể ăn, ăn muốn không giảm, ăn không kém, vẫn thiếu máu thì rõ ràng là có nguyên liệu nhưng không thể vận hóa, như vậy khi điều trị thì cần xem xét là công năng vận hóa của tỳ không được, hay là tỳ dương hư hoặc dương của tâm thận bất túc gây ra.
Thập toàn đại bổ hoàn và nhân sâm dưỡng vinh hoàn thì đơn giản. Về bát trân thang, khí huyết đều hư thì khí huyết cùng bổ. Nhưng trong khi dùng cụ thể, cần xem đâu là chủ, thì lấy thuốc nào làm chủ. Thập toàn đại bổ hoàn và nhân sâm dưỡng vinh hoàn, đặc biệt là nhân sâm dưỡng vinh hoàn trong điều trị thiếu máu cơ năng, cùng sẽ là khi công năng biến hóa không đủ, hiệu quả khá tốt.
Chậm kinh, trễ kinh, rối loạn kinh nguyệt gây xáo trộn cuộc sống của chị em
Bài thuốc Nhân sâm Dưỡng Vinh Thang
Nguyên bản bài thuốc:
Nhân sâm dưỡng vinh thang. (Đơn vị g) 
Đương qui            12          Thục địa     20      Bạch thược 12
đẳng sâm              16          Bạch truật   12      Bạch linh    12
Cam thảo                6           Hoàng kỳ   10      Nhục quế      6     
Xuyên khung          8            Viễn chí       8     Táo             12
Sinh khương           8          Ngũ vị         12      Trần Bì         8
Cách dùng và lượng dùng: Thang sắc uống

Theo Hòa tễ cục phương: đây là bài Thập toàn đại bổ thang bỏ Xuyên khung và thay vào đó thêm 3 vị là Ngũ vị tử, Trần bì, Viễn chí.

Với ý nghĩa đây là bài thuốc kết hợp giữa các bài thuốc cổ Quy kỳ kiến trung thang, Linh quế truật cam thang, Linh quế ngũ vị Cam thảo thang và Nhân sâm thang với các bài thuốc hậu thế Tứ vật thang và Tứ quân tử thang có thêm Trần bì và Viễn chí, cho nên đây là bài thuốc bồi bổ thể lực cho những người nước ứ dưới da, trong khí quản và trong vị tràng nhiều nước ứ và do những thủy độc này mà cả khí lẫn huyết đều hư, những người có thể chất hư nhược, bị các bệnh về đường tuyến, bị mệt mỏi, thiếu máu, suy nhược và ăn uống không ngon miệng sau khi ốm dậy.

Thuốc còn được dùng cho những người bị chứng chóng quên, mất ngủ, nôn mửa, đổ mồ hôi trộm, bí đại tiện hoặc là có chiều hướng bị ỉa chảy, ngạt thở, ho vì da, đầu tóc thiếu dinh dưỡng. Thuốc được ứng dụng trị các chứng viêm niêm mạc vị tràng, mất trương lực dạ dày, giãn dạ dày, suy nhược sau khi ốm dậy hoặc sau khi đẻ, lao phổi, lao ruột, sức khỏe giảm sút sau khi ốm dậy, người mệt mỏi rã rời, ăn uống không ngon miệng, đổ mồ hôi trộm, chân tay lạnh, thiếu máu.v.v..

Bài thuốc Nhân sâm Dưỡng Vinh Thang dùng trị 7 chứng: Rụng tóc, da mặt xỉn, chóng quên, chỉ uống chứ không ăn, tim đập mạnh, mất ngủ, toàn thân cảm thấy khô, móng chân móng tay khô, cơ bắp cứng. Giải thích: Theo Giải thích các bài thuốc chủ yếu hậu thế và các tài liệu tham khảo khác: đây là bài thuốc bồi bổ thể lực dùng cho những người cả tỳ lẫn phế đều hư, cả bộ máy hô hấp lẫn bô máy tiêu hóa đều bị bệnh, thêm vào đó lại do lao lực, hư tổn, âm dương suy nhược, khí ở ngũ tạng khô, nước bọt khô, suy dinh dưỡng, thiếu máu hoặc bị các chứng ác dịch chất, người vô cùng mỏi mệt

Bài thuốc Nhân sâm Dưỡng Vinh Thang dùng có hiệu quả cho những người tân dịch khô và bí đại tiện hơn là những người ỉa chảy.

Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Trong bài có vị Nhân sâm phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm chết người- Tuyệt đối không được dùng chung với Lê lô
Bạch thược phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm - không được dùng chung với Lê lô
Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.

Sau đây, trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những bài thuốc BÁT VỊ mọi người cùng quan tâm

a-     BÁT VỊ THANG
Nguyên bản bài thuốc
Dương Thị Gia, Tàng Phương, Q.6. Dương Đàm
Ôn trung, trục hàn. Trị tỳ vị hư hàn, khí không thăng giáng, bụng ngực đau như kim đâm, tạng phủ hư thoát, tiêu chảy.
Vị thuốc:
Can khương (nướng) …………80g
Đinh hương ….....................… 40g
Đương quy ….....................…. 40g
Mộc hương ……...................... 40g
Ngô thù du (tẩy nước 7 lần) … 80g
Nhân sâm …….........................40g
Nhục quế (bỏ vỏ) ………….... 40g
Quất hồng ….....................….. 40g
Tán bột.
Mỗi lần dùng 20g. Thêm nước 2 bát, sắc còn 1 bát, bỏ bã, uống ấm.
Lưu ý khi dùng thuốc:
        Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
        Trong bài có vị Nhân sâm phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm chết người- Tuyệt đối không được dùng chung với Lê lô
        Vị thuốc Đinh hương kỵ với Uất kim, khi dùng cần chú ý
        Vị thuốc Nhục quế kỵ thai, kỵ Xích thạch chi, khi dùng cần chú ý
        Vị thuốc Can khương rất nóng nên kỵ thai, có thai dùng thận trọng

b- BÁT BẢO THANG đặc trị viêm họng hạt: Bài thuốc Gồm có 8 vị
1- Cây Dàn Xay (có cả rễ càng tốt)- Trị được bá chứng, xuất phong nhập cốt,...
2- Dây Giang sẻ (còn gọi dây Giang đất): Vị quân - Chủ trị Viêm họng hạt(không có vị thuốc này xem như bài thuốc không có tác dụng). Trị được căn nguyên của bệnh.
3- Ké đầu ngựa: Kháng dị ứng, tiêu độc,...
4- Kim ngân hoa: Dùng loại tốt nhất, gồm có hoa 100%- Thanh nhiệt, hổ trợ tiêu viêm,...
5- Cây tra (có nơi còn gọi Cây Rướng)- Dùng vỏ cây là tốt nhất: Thấp nhiệt, bài độc, tiêu viêm,...
6- Cây Bạch đồng nữ: Có tác dụng trừ ho, tiêu đờm,...
7- Cây cỏ mực: Có tác dụng bổ thận âm hư, điều hòa huyết áp,...
8- Cỏ cứt lợn: Lưu dẫn thuốc.
Chú ý: Không được thay thế vị thuốc nào trong 8 vị thuốc nói trên. Nếu thiếu một vị thì bài thuốc cũng không hiệu nghiệm. (Bài thuốc chỉ có tính giới thiệu).

Có bài Bát bảo thang khác: Trị tạng độc, tiêu ra máu.
Vị thuốc:
Cam thảo .......... 2g
Chi tử ................10g
Hoàng bá .......... 10g
Hoàng cầm ..... 10g
Hoàng liên ........ 10g
Hòe hoa .............10g
Tế tân .................2g
Sắc uống lúc đói.
Lưu ý khi dùng thuốc:
  • Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
  • Trong bài vị Tế tân rất nóng và có độc và phản với vị Lê lô. cần chú ý liều dùng, không gia quá nhiều, và không dùng chung với Lê lô
  • Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng
·         Hoàng liên kỵ Thịt heo. Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.

c- Bài thuốc Bát Bảo Hồi Xuân Thang   (Đông y Thiên Lương)
Công dụng:
Khư phong, hòa Vị, hoạt huyết. Trị phong hư, đầu đau, mắt hoa, chóng mặt.
Vị thuốc:
·         Bạch thược ……….6g
·         Bạch truật ………....2g
·         Bán hạ …………… 2g
·         Cam thảo ……..… 1,6g
·         Can khương …..1,6g
·         Đương quy ……… 1,6g
·         Hạnh nhân …….… 1,6g
·         Hoàng cầm …… 1,6g
·         Hoàng kỳ …………3,2g
·         Hương phụ ……… 1,6g
·         Ma hoàng …….. 1,6g
·         Nhân sâm …….. 1,6g
·         Nhục quế ………... 1,6g
·         Ô dược …….……. 1,2g
·         Phòng phong ..….. 1,6g
·         phụ tử …………… 1,6g
·         Phục thần ………… 2g
·         Sinh địa …………..1,6g
·         Thục địa ………… 1,6g
·         Trầm hương ……..1,2g
·         Trần bì …………….1,6g
·         Xuyên khung ….... 1,6g
·         Xuyên ô …………. 1,2g
Sắc uống.

d- BÁT VỊ HOÀN trong Hải Thượng y tông tâm lĩnh
1. Công thức bài thuốc
Thục địa         8 lạng           Hoài sơn  4 lạng
Sơn thù          4 lạng            Đơn bì     3 lạng
Bạch linh      3 lạng            Trạch tả   3 lạng
Nhục quế      1 lạng             Phụ tử    1 lạng
Bào chế, viên với mật bằng hạt ngô đồng mỗi lần uống 60 – 70 viên lúc đói bụng, nấu nước muối làm thang mà uống, uống xong một lúc thì ăn thức ngon chận lên.
  2. Phân tích bài thuốc và ý nghĩa của bài thuốc
Thục địa bổ thận, điều tinh, sinh huyết, là thuốc thánh để bổ âm là đầu vị; Sơn thù vị chua vào can thận, chủ đóng kín mà tính chua liễm hợp với nó, Sơn thù là ấm gan, đuổi phong, cố tinh ích khí. Hai vị thục địa và sơn thù là chất nhu nhuận.
Bạch linh, Sơn dược vào để giúp tỳ vị, khiến cho từ chỗ đó mà sinh ra hóa nguyên, và làm cho hậu thiên phát triển mãi mãi ko cùng. Linh có thể vào tỳ, thấm được thấp nhiệt ở trong tỳ mà thông với thận, giao với tâm, tác dụng của nó đều chủ về thông lợi đỡ cho vị Sơn dược có tính trệ. Vả lại, sắc trắng thuộc kim, có thể bồi dưỡng bộ phận phế lại có ý nghĩa “con hư thì bổ mẹ”. Sơn dược vị ngọt vòa tỳ mà bổ tỳ yên được kẻ thù của thủy cho nên dùng làm thần và lại thanh hư nhiệt ở phế lại hay cố tinh bổ thận. Đơn bì để trừ nhiệt nấp ở phần âm, còn tả được cả hỏa ẩn náu của quan tướng, lương huyết lui nhiệt. Đơn bì là hỏa ở phương nam giống đực không phải cái, thuộc dương, cho nên vào được thận, tả được âm hỏa, dẹp lui được chứng nóng âm ỉ trong xương, không có mồ hôi, Đơn bì vào can, tác dụng chủ yếu là tuyên thông để giúp Sơn thù là thuốc cố sáp. Trạch tả lợi tiểu tiện, để thanh tướng hỏa, thông cái trệ của thục địa để dẫn các thuốc mau đến thận, có bổ có tả mà không thích công phạt. Trạch tả để tả hỏa tà, nước đọng của long lôi lại cùng phục linh thấm nhạt, chuyển vận các vị thuốc đi xuống. Trạch tả Phục linh tính thấm tả chính là để cho máu khiến cho chóng thông xuống dưới, thận âm không giũ được bốc cháy lên trên. Dùng Trạch tả tính mạnh để đưa phần âm trong dương xuống. Trong bài bát vị, kiêm cả công lẫn bổ, đầy đủ cả âm dương, vì không có dương thì âm không thể sinh sôi nảy nở được, cho nên các vị Nhục quế, Phụ tử là loại thuốc cay nhuận, có thể bổ hỏa trong thủy, thủy hỏa được nuôi dưỡng thì thận khí trở nguyên chỗ. Phụ tử là thuốc của cả tam tiêu, cay nóng thuần dương lưu thông các kinh mạch, tính chạy mà không giữ lại, Nhục quế là thuốc kinh thiếu âm, tuyên thông huyết mạch, tính cũng bốc, hai vị ấy đều khó khống chế, cần được 6 vị kia là thứ thuần âm, vị hậu, nhuận hạ để khơi thông đưa đường rồi mới dẫn xuống thận, tự nhiên sẽ không ngại chấn động lên nữa.
Ý nghĩa của bài Bát vị: phương này chữa chứng tướng hỏa không đủ, hư gầy khí kém, cho nên Vương Băng cho rằng “Bổ ích nguồn chân hỏa để làm tiêu tan mây mù trong phần âm’, mạch xích nhược thì dùng rất thích hợp.
  3. Công dụng bài thuốc
Trị các chứng : mệnh môn hỏa suy, tướng hỏa không đủ không sinh được thổ, đến nỗi tỳ vị hư hàn, hư yếu, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện không rắn, rốn bụng quặn đau, đêm đi đái nhiều, hoặc mạch hư nhược, thổ yếu thủy thắng, thiếu hỏa hao kém; hoặc mạch rỗng ấn vào có lực, hoặc hỏa hư đờm thịnh, cùng với các chứng âm thịnh cách dương, trong thực hàn mà ngoài giả nhiệt, nên nói rằng bổ ích cho nguồn chân hỏa để tiêu tan mây mù trong phần âm là thế.
  4. Cách gia giảm bài Bát vị:
– Thận hư ỉa chảy, kiết lỵ kéo dài gia Thăng ma, Phá cố chỉ, Ngũ vị; bội Linh, Trạch; khử Mẫu đơn
– Mạch bộ xích bên phải vi tế mà phần dương kém quá bội Quế Phụ
– Mạch bộ xích bên trái hồng sác mà phần âm quá thiếu thì bội Thục địa, hoặc chưng thành cao, hoặc nấy trước đi.
– Mạch bộ quan bên trái vô lực, can khí không đủ bội Sơn thù
– Mạch bộ quan bên phải vô lực, tỳ vị kém, bội Linh Trạch; không có thấp trện thì giảm Linh
– Vị hỏa nhiều quá sinh chứng phát vàng, sốt về chiều, miệng lở hay đói, khát nhiều, giảm trạch tả, bội Đơn bì
– Can hỏa thịnh nóng như nấu, ngọc hành đau, tiểu tiện ngắn xẻn, bội Thục địa, đơn bì
– Vị khí yếu, trung khí hư hàn, dễ trướng dễ tiết, khử Mẫu đơn, bội Linh Trạch, Quế, phụ
– Đàn bà kinh bế, huyết ít, có nhiệt, bội mẫu đơn, Thục địa; Hư hàn khử Đơn bì bội Phụ tử, Nhục quế
– Táo khô có dương không âm, khử Trạch tả, bội Thục địa, gia Mạch môn, Ngũ vị, Ngưu tất hay khát uống nhiều bội Linh Trạch; không khát có nóng như nấu bội Đơn bì, khử Trạch tả, dùng Linh tẩm sữa
- Cô dương bốc nổi lên, vì thận hư không thu nạp đóng kín lại được, gia Ngưu tất Ngũ vị tử để giúp sức cho Sơn thù vị chua có tính thu liễm
- Dương hư tinh tổn gia Lộc Nhung, Hà xa đều là vị thuộc tính huyết hữu hình, để giúp công năng bổ mạnh cho loài thảo mộc
– Thận hư không thu nạp dược khí về nguyên chỗ là ra chứng hư trướng hư suyễn, nôn tức, khí nghịch lên, thượng tiêu phần nóng, bội Ngưu tất để giúp sức cho Linh Trạch dẫn đi xuống, gia Ngũ vị để giúp sức cho thu liễm lại
– Thận hư không bế tàng được, khí hư dưới dồn chạy ngươc lên mà thành chứng thần tả(đi ỉa lúc mờ sáng), gia Bổ cốt chỉ, Thỏ ty để bổ phần dương của tỳ thận, có tác dụng cho cả tiên thiên và hậu thiên
– Âm dương đều hư, nóng rét qua lại, giống sốt rét mà không phải sốt rét thì gia Sài hồ, lạnh nhiều thì bội Quế phụ, nóng nhiều thì bội Đơn bì, khát thì gia Mạch môn Ngũ vị. Bệnh mới mắc lúc đó nguyên khí chưa suy thì tạm gia Hy thiêm để khu tà, tà lui rồi thì bổ ngay là tốt, nóng rét thì âm dương đều hư cả, không nên để lâu, vì đuổi tà cũng là giúp chính khí
– Vừa mửa vừa ỉa, âm dương kiệt quệ, mửa nhiều có phù nhiệt bốc lên thì bội Đơn bì, gia Ngũ vị để thu lại, tả nhiều thì bội Linh Trạch để thấm đi, lại bội Ngũ vị, Cố chỉ để thu lại, đóng lại, gia Mạch môn (sao gạo), Ngũ vị (sao mật). Vong âm, trung tiện luôn (khí là dương, dưới không có âm đóng kín mà thoát ra, cho nên vong dương, cũng gọi là vong âm) gia Thăng ma để đưa lên, Cố chỉ để đóng kín lại.
– Chứng hư bĩ giả đầy trướng, giả tích khối, khử Mẫu đơn, bội quế phụ, gia Ngưu tất, Ngũ vị
– Chứng hư lâu ngày, đau bụng liên miên gia Ngô thù ,Tiểu hồi
– Thận hư đau sán khí gia Xuyên luyện Quất hạch, Ngô thù, Hoàng bá sao đen, khử Phụ tử
– Đờm dãi vít lấp, thủy hư thì khử Phụ, hỏa hư thì Thục địa sao khô mà dùng
– Các chứng phát sốt của trẻ em khử Quế phụ, gia Mạch môn Ngũ vị, có nóng rét gia Sài hồ Bạch Thược, kinh giật gia Quy thược, Tần giao, Câu đằng. Hư trướng thì dùng Quế chút ít. Các chứng trẻ em hư hàn khử Phụ; quyết lạnh dương thoát lại nên dùng Phụ; nếu hỏa hư kém cả âm huyết hư thì nên dùng quế khử phụ
– Trẻ em nhiệt uất đau bụng đi ỉa như rót khử Quế phụ, giảm Thục địa sao khô bội Trạch tả, gia Thăng ma, khát nhiều gia Mạch Môn, Ngũ vị
– Trẻ em hư nhiệt phát ban khử Quế Phụ, bội Đơn bì, gia Quy thược
– Đàn bà huyết khô kinh bế người gầy đen, tóc ngắn, tính nóng nẩy, hay đau bụng trước khi hành kinh, khát uống nước luôn, đau lưng, sốt về chiều hầm hập, khử Phụ giảm bớt lượng Quế, Trạch; bội Sơn thù, gia Quy Thược, Đỗ trọng sao rượu
– Đàn bà có chứng Bạch đới thì khử Phụ, bội Trạch tả, có đau mà trệ xuống gia Thăng ma, không thì gia Phá cố chỉ.
Đó là cách dùng tá sứ thỏa đáng thì có thể hợp chung thành một tễ để giúp thêm thành công.
5. Phép dùng thang tống Bát vị hoàn
– Dùng nước muối nhạt làm thang tống, là vì muối nhuận xuống, làm mềm chất rắn, có hư hỏa thì dẫn xuống
– Dùng nước lã đun sôi làm thang tống là vì nó không nhanh không chậm không nóng không ráo
– Dùng nước cơm sôi làm thang tống là vì nó là chân vị điềm đạm của tỳ, rất chóng sinh ra tinh, có ý nhân bổ thận mà bổ tới cả tỳ
– Dùng rượu nóng làm thang vì nó dẫn sức thuốc đi rất nhanh, mùa đông có thể ngăn được hàn tà, từ bên ngoài
– Dùng bài Bổ trung làm thang tất vì có chứng nguyên khí hãm xuống, đã muốn bổ nguồn gốc lại sợ thuốc chạy xuống thái quá, trên hư dưới thực, nên phải đưa trung khí lên, để cho nguyên khí ở tam tiêu còn mãi
– Dùng bài Lý trung làm thang, tất vì tỳ vị trầm hàn nên trước phải điều lý tủng châu rồi mới thông xuống được
– Dùng bài Sinh mạch làm thang là vì kim sinh thủy làm cho mẹ con nuôi nhau, khí của phế dồn xuống thận làm vệ khí lại dẫn được xuống hai tạng kim và thủy để sinh âm
– Dùng bài Quy tỳ làm thang là muốn cho tiên thiên thủy hỏa, hậu thiên khí huyết đều được tự nhuận
– Dùng nhân sâm Trần mễ làm thang là để cho dẫn xuống tỳ thận mà sinh dương khí
Cách dùng thang tống như đã kể trên để chiêu thuốc hoàn đều là vì bệnh cấp không thể để dây dưa, tiêu bản đều phải chiếu cố tới cả, cho nên phải mượn khí mạnh của thuốc sắc để làm công trước mở đường, vận tống thuốc hay của thủy hỏa nạp xuống đan điền, để giũ cho nguyên dương được vững chắc mãi, công dụng của thuốc sắc vừa đi qua thì tính của thuốc hoàn lại nảy sinh tác dụng, từ căn bản cho đến tam tiêu, cứ còn mãi mãi khí dương hòa ý nghĩa rất sâu xa
6. Sự cấm kỵ của bài Bát vị
– Có người dùng Hà thủ ô làm đầu vị trong bài này thì một bài thuốc hai đầu vị biết theo bên nào?
– Hoặc có khi phối hợp với Sâm kỳ thì thuốc bổ thận chạy vào âm kinh, thuốc bổ khí chạy về dương phận mà hay bên giằng giữ nhau ko yên được chỗ, lại quấy rối, khích động hư dương bốc lên không gì dẫn về kinh được
– Hoặc có người dùng Táo, Quy Truật để kiêm chữa cả tâm tỳ. Nào có biết rằng Thục địa bổ tinh huyết càng phải nhờ Sơn thù vị chua, chát để giữ vững lại. Còn như Quy cay mà chạy vào phần dinh là thuốc của phần huyết mà không phải là thuốc của phần tinh, chua thì thu, cay thì tán rất khác nhau xa, huyết với âm tinh đều nên phân biết cho rõ. Vả lại trong bài lục vị, bát vị đều có đủ cả âm dương khiến cho thủy hỏa hun nấy gây thành tinh huyết. Bạch truật có công năng làm cho khô cho ráo, chạy riêng vào tỳ vị, gia vào đó thì lại làm cho hao kém mất sức hun nấu, chân âm còn nhờ vào đâu mà sinh ra được. Còn như Táo nhân là thuốc phần khí của thượng tiêu tâm tỳ, không phải là thuốc thích hợp với tinh huyết ở thận
– Hoặc thêm vị như Câu kỷ, Phúc bồn, Liên nhục….có sức chậm chạp, nếu thêm một vị càng hãm lại một phần, khó kiến hiệu nhanh.
– Hoặc thêm vị Tiên mao tuy có sức mạnh, nhưng bẩm tính không giống nhau thì ở cùng đội ngũ sao được, mỗi bên đều cậy có sức mình, làm rối loạn phép thường.
– Hoặc gia Bào khương, Chích thảo là thứ thuốc chữa trung tiêu, không thể xuống dưới được. Vả lại Thục địa khí nhuận ngọt ấm, là thuốc nhuần bổ chân âm, bỏ lẫn vào thuốc cay nóng, ấm trung tiêu thì chẳng những mất hết tính nhu nhuận, mà vị Thục địa cũng không còn chút sức nào nữa. Cho nên bài Địa hoàng hoàn xưa nay không ai gia thêm Khung, Quy, Khương, Thảo là vì thế.

Cuối cùng, chúng ta cùng nghe “BC KIM THANG” nhé. Cứ tưởng bài thuốc, hóa ra không phải.
Bắc Kim Thang là bài đồng dao gần như gắn liền với tuổi thơ của mỗi người Việt Nam bởi ca từ dễ nhớ và âm điệu vui nhộn. Nhưng chúng tôi [ATABOOK] tin rằng không nhiều người hiểu được hết nội dung và ý nghĩa sâu xa của bài đồng dao này. Có hai quan điểm phổ biến giải thích về ý nghĩa bài Bắc Kim Thang:
1. Ý kiến thứ nhất là từ ông Nguyễn Hữu Thiệp (An Giang) đưa ra trong Hội thảo khoa học tại trường Đại học Cần Thơ năm 2003. Theo đó, Bắc Kim Thang phải có tên chính xác là Bắt Kim Than (tức là Bắt con ngựa màu nâu sậm). Cụ thể, bài hát này nguyên gốc phải là:
Bắt Kim Than, cà lang bí rợ
Cột quai chèo, chèo qua chèo lại
Bắt ngựa ô, chạy vô vườn mít
Hái lá mít, chùi đít ngựa ô
.
Theo ông Thiệp, đây vốn là bài đồng dao mà các em nhỏ Nam Bộ ngày trước sử dụng khi chơi trò khoèo chân, vừa chơi vừa hát.



2. Ý kiến thứ hai là từ ông Ngọc Thạch đưa ra dựa vào câu chuyện cổ tích của một cụ bà khoảng 80 tuổi mà ông nghe được trong chuyến công tác Long Xuyên năm 2008. Theo đó, Bắc Kim Thang bắt nguồn từ câu chuyện cảm động về tình bạn giữa một anh bán dầu và một anh bán ếch. Chuyện kể như sau (trích nguyên văn):
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng quê nọ, có hai người bạn làm nghề buôn bán cùng nhau. Một người đi soi đèn bắt ếch về đêm, còn anh kia thì chuyên đi bán dầu thắp đèn vào rạng sáng. Nhà họ dựng trên một cù lao nhỏ ven sông, tách biệt với làng xóm, muốn đi vào chợ làng phải đi ngang một cây cầu khỉ vắt vẻo. Do hoàn cảnh đơn chiếc, nên hai anh cũng thân thiết với nhau. Có lần vì mẹ già của anh bán ếch bệnh mà không có tiền chạy chữa nên qua đời, anh bán dầu liền bỏ tiền ra giúp đỡ ma chay mà không hề tính toán, vì thế mà anh bắt ếch càng quý trọng tình bạn của anh bán dầu.
Một đêm nọ, trong lúc đi làm việc, anh bắt ếch nghe tiếng kêu thảm thiết phát ra từ một cái bẫy trên đồng. Tính tò mò, anh lại mở ra coi thì phát hiện ra hai con chim le le và bìm bịp nằm trong bẫy, do chúng giành ăn với nhau mới bất cẩn rơi vào bẫy của con người. Hai con chim ra sức năn nỉ anh bắt ếch mở bẫy tha cho mình, rồi hứa sẽ đền ơn báo đáp. Vốn là người có tính nhân từ, anh bắt ếch cũng xuôi lòng rồi giải thoát cho chúng.
Vài ngày sau, hai con chim cùng bay đến nhà anh bắt ếch để cảnh báo cho anh biết tai ương sắp đến. Chúng nghe được hai con ma da ở sông bàn với nhau rằng sẽ kéo chân anh bán dầu và anh bắt ếch, cho hai anh chết, thế mạng cho chúng để chúng được đầu thai. Vì hai con ma này chết đã lâu, nếu trong 7 ngày không bắt được người thay thế sẽ bị hồn phách tứ tán, không được đầu thai nữa. Thêm vào đó, ma da cũng chỉ có thể bắt hai anh khi trời vừa rạng sáng, lúc anh bán dầu ra chợ và lúc anh bắt ếch về nhà, bởi vì khi mặt trời lên thì chúng không còn ma phép.
Ban đầu anh bắt ếch đem cớ sự nói anh cho bán dầu nghe, khuyên anh nên ở nhà, nghỉ bán một tuần lễ, nhưng anh bán dầu lại không tin, cho rằng đấy là mê tín vớ vẩn, trên đời không có ma, quỷ. Theo lời le le và bìm bịp, anh bắt ếch viện cớ đến ngày cúng mẹ, gọi anh bán dầu qua nhà tiệc tùng ăn nhậu, chuốc cho anh say mèm đến mức sáng hôm sau không ra chợ bán được. Ngày kia lại lấy cớ sang nhà cảm ơn anh bán dầu đã giúp đỡ, lại bày tiệc ăn uống no say, trì hoãn việc đi ngang cây cầu kia. Hôm ấy là ngày cuối cùng của thời hạn 7 ngày ma da bắt hồn, do say xỉn nhiều ngày liền nên anh bắt ếch ngủ quên. Anh bán dầu sực tỉnh vào sáng sớm, nhận ra mình đã bỏ buôn bán mấy ngày liền bèn nhanh chóng quẩy hàng ra chợ. Do bước vội vàng qua cầu khỉ cheo leo, lại bị bọn ma da biến phép cho cầu trơn trượt nên sẩy chân rơi xuống nước mà chết. Anh bắt ếch vì tiếc thương bạn nhưng do còn sợ bọn ma da nên phải đợi hết một ngày sau mới dám vớt xác bạn lên mà làm ma chay. Thấy ân nhân của mình đau lòng, le le và bìm bịp cũng bay đến, cất tiếng kêu thảm thiết như tiếng kèn trống đám ma để tiễn biệt một người chết oan.”
Chú bán dầu, qua cầu mà té. Đọc hết truyện cổ tích này thì có lẽ mọi người đều sáng tỏ vì sao trong bài Bắc kim thang có 4 câu cuối là:
Chú bán ếch, ở lại làm chi.
Con le le đánh trống thổi kèn,
Con bìm bịp thổi tò tí te tò te.
Câu chuyện cổ tích trên thực chất là nhằm đề cao tình bạn và tính chất cứu vật vật trả ơn của người xưa. Thế nên vấn đề truy tìm nguồn gốc từ - ngữ chủ yếu nằm ở hai câu: 
Bắc kim thang, cà lang bí rợ
Cột qua kèo, là kèo qua cột.

Ở câu đầu tiên, cà, lang, bí rợ là để chỉ cho 3 loại củ, quả có cùng một đặc tính là thuộc họ dây leo, trái cà, khoai lang và bí rợ. Đặc biệt với từ bí rợ, là một từ thuần chất của miền Nam, cũng đã nói lên xuất xứ của bài đồng dao này là từ miền Tây Nam bộ.
Riêng về từ kim thang” ở đây cần được hiểu là cái thang hình chữ KIM (), tc có hình tam giác cân. Cái kim thang của trẻ em ngày trước là do người lớn dùng hai thanh tre dài, bắt chéo vào nhau tạo thành một hình tam giác cân rồi cắm trên mặt đất, cách vài mét lại đặt một cái như vậy, tạo thành một hàng dài. Bản thân của cái kim thang này trở thành một cái cột (vì không có cây cột dựng đứng giữa nên hai thanh tre chéo vào trở thành cột luôn). Những cái kim thang được nối vào nhau bởi cái “vì kèo” là những thanh tre chạy dọc theo giàn, cứ như thế tạo thành một giàn cốt là để cho cà, lang, bí rợ leo lên mà sinh sôi, phát triển.

  D
o đó câu “cột qua kèo, kèo qua cột” nhằm chỉ mối quan hệ gắn bó vào nhau của hai vật thể, tức giữa kèo và cột. Cả câu “bắc kim thang, cà lang bí rợ, cột qua kèo, là kèo qua cột” nhằm làm rõ thêm mối quan hệ keo sơn, gắn bó của anh bán dầu và anh bán ếch ở bốn câu sau như đã phân tích từ câu chuyện cổ tích ở trên.
Cuối Siter, mời các bạn nghe bài hát trẻ thơ Bắc kim thang, nhạc thiếu nhi sôi động cho bé, cũng là an ủi những ai, sinh một bề - “Toàn con gái”. Chúc cả nhà vui vẻ.
Sưu tầm, tập hợp, chỉnh sửa từ các trang WEB liên quan. Mời xem V-Clip

https://bit.ly/2Xs0CUf








1 nhận xét:

  1. Con xin chào Lương y ạ. Lương y cho cho hỏi là bài BÁT TRÂN mà thêm ÍCH MẪU có thêm tác dụng gì ạ ? Con cám ơn Thầy rất nhiều ạ.

    Trả lờiXóa