Chậm kinh, trễ kinh:
Dùng ngay bài thuốc Bát trân thang!
HEALTH+ | Chậm kinh, trễ kinh,
rối loạn kinh nguyệt không chỉ khiến phụ nữ xanh xao, mệt mỏi, gầy yếu mà còn
có thể dẫn tới vô sinh hiếm muộn. Nếu đang phải khốn khổ với chu kỳ kinh nguyệt
của mình, bạn nên dùng bài thuốc Bát trân thang.
1/ Bát trân thang vốn là bài thuốc cổ được danh y Tiết Kỷ
người Trung Quốc đời nhà Minh phát minh, dựa trên những nguyên lý Đông y,
có công dụng bồi bổ khí huyết, phòng chống thiếu máu, điều trị các bệnh sản phụ
khoa.
Trong nền y học cổ
truyền của nước ta, Bát trân thang là một trong những phương thuốc bổ khí huyết
rất thông dụng. Bài thuốc này thường được dùng làm hạt nhân để gia giảm, cấu
tạo nên các bài thuốc mới.
Theo phân tích của y
học hiện đại, Bát trân thang có tác dụng thúc đẩy quá trình sản sinh hồng cầu,
làm tăng lượng huyết sắc tố, từ đó giúp phòng chống tình trạng thiếu máu. Ngoài
ra, bài thuốc này còn có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, cải
thiện hệ tuần hoàn, điều tiết sự co bóp của tử cung, chống mệt mỏi, bảo vệ
gan...
Phân tích bài thuốc Bát trân thang
Bát trân thang gồm có
8 vị thuốc: Đương quy 12gr, Xuyên khung 12gr, Thục địa 20gr, Bạch thược 12gr, Đảng
sâm 12gr, Bạch linh 12gr, Bạch truật 12gr, Cam thảo 10gr.
Đây là bài thuốc kinh
điển, được kết hợp từ 2 bài thuốc là Tứ quân tử thang (có tác dụng bổ khí) và
Tứ vật thang (bổ huyết). Cả hai bài thuốc này kết hợp lại có tác dụng bổ khí bổ
huyết. Bởi theo y học cổ truyền, khí là soái của huyết, khí hư dẫn đến huyết hư
và ngược lại. Vì vậy, khi sử dụng các thuốc bổ khí thường kết hợp các loại
thuốc bổ huyết với nhau.
Bài thuốc Tứ vật thang (bổ huyết): Đương quy có tác dụng
bổ huyết, hoạt huyết. Thục địa có tác dụng tư âm dưỡng huyết. Bạch thược giúp
dưỡng huyết điều kinh. Xuyên khung có tác dụng hoạt huyết thông kinh, hành khí
giải uất, làm huyết lưu thông, chống huyết ứ trệ.
Như vậy, bài thuốc Tứ
vật thang có tác dụng dưỡng huyết, hoạt huyết kiêm cả hành khí, không những
điều trị huyết hư mà còn dùng cho cả huyết ứ trệ.
Bài thuốc Tứ quân tử thang (bổ khí): Đảng sâm bổ khí (nguyên khí),
có tính cam ôn, dùng trong trường hợp trung khí bị hư, bạch truật khổ ôn để
kiện tì vận thấp (hóa thấp) phối hợp với nhau để bổ khí kiện tỳ. Phục linh cam
đạm để thẩm thấp kiện tỳ giúp Bạch truật tăng tác dụng hóa thấp, tăng nguồn khí
huyết cho cơ thể. Cam thảo giúp bổ khí hòa trung đưa thuốc vào tỳ làm chức năng
điều hòa các vị thuốc.
Bài thuốc này giúp bổ
khí kiện tỳ mà không gây thấp trệ tăng lên, cơ thể khỏe hơn. Cả 4 vị thuốc kết
hợp với nhau có tính hòa hoãn, dễ uống, đều làm ăn ngon, bổ khí.
Ứng dụng bài thuốc Bát trân thang thế nào?
Bài thuốc Bát trân
thang chủ yếu vẫn được sử dụng dưới dạng thuốc sắc hoặc viên hoàn mềm. Tuy vậy,
việc đi bắt mạch, bốc thuốc, sắc thuốc không phải là vấn đề đơn giản với hầu
hết phụ nữ.
Để tiện lợi và an
toàn, chị em có thể tìm các loại thuốc được chiết xuất từ bài thuốc này kết hợp
với Hương phụ và Trần bì (hai vị thuốc có công dụng hành khí giảm đau, khai uất
điều kinh, giúp cho cơ thể lưu thông khí huyết, làm giảm đau), để giúp điều trị
rối loạn kinh nguyệt, chậm kinh, trễ kinh, đau bụng kinh...
2/ Nguyên bản bài thuốc: Bát
trân thang (Chính thể loại yếu). Đơn vị Grames
Đẳng sâm 16 Bạch
truật 12 Bạch
linh 12 Cam thảo 6
Qui đầu 12 Thục
địa 20 Bạch
thược 12 Xuyên khung 8
Cách dùng:
Sắc nước uống.
Tác dụng:
Ích khí bổ huyết.
Giải thích bài thuốc:
Bài thuốc gồm 2 bài
“tứ vật” và “tứ quân” hợp lại thành 1 bài thuốc có tác dụng song bổ khí huyết, trong
bài tứ quân bổ khí, bài tứ vật bổ huyết gia thêm sinh khương, đại táo để điều
hòa dinh vệ, là 1 bài thuốc thường dùng để bổ khí huyết.
Bài thuốc tứ vật thang
Bài thuốc tứ vật thang
được chép trong sách cổ “Hòa tễ cục phương” như sau:
Thành phần:
Thục địa: 12 – 24gr
Bạch thược: 12 – 16gr
Đương quy: 12 – 16gr
Xuyên khung: 6 – 8gr
Cách dùng: Sắc nước
uống.
Tác dụng: Bổ huyết
điều huyết, hoạt huyết điều kinh.
Bài thuốc Tứ quân tử thang
Thành phần:
Nhân sâm 10g
Bạch truật 9g
Phục linh 9g
Cam thảo 6g
Uống không câu nệ thời
gian, cho vào ít muối. Hiện nay dùng
thang sắc uống.
Công dụng
Bổ khí, kiện tỳ.
Chủ trị
Chữa chứng tỳ vị khí
hư, vận hóa kém gây sắc mặt trắng bệch, nói nhỏ, ăn kém, ỉa phân nát, tay chân
mỏi mệt, chất lưỡi nhạt, mạch tế hoãn.
Bài thuốc trên có tên Tứ quân tử thang là do 4
vị đều có tính bình hòa, không nhiệt, không táo, có thể dùng lâu mà không gây
tác dụng xấu.
Theo các nghiên cứu
dược lý hiện đại, Tứ quân tử thang có các tác dụng sau:
- Điều tiết hệ thần
kinh thực vật, thúc đẩy hồi phục công năng tiêu hóa và làm lành vết loét.
- Tăng tạo glucogen
trong gan, gia tăng năng lượng dự trữ.
- Thúc đẩy công năng
tạo huyết của tủy xương.
- Điều chỉnh tuần hoàn
huyết dịch.
- Tăng cường chức năng
của hệ thống miễn dịch.
- Thúc đẩy công năng
của các tuyến nội tiết, lập lại cân bằng thể dịch trong cơ thể.
- Cung cấp các nguyên
tố vi lượng như kẽm, sắt, đồng và magiê.
Y học cổ truyền đã bổ
sung vào Tứ quân tử thang một số vị kiện tỳ, ích khí khác để tạo thành các bài
thuốc sau:
- Chữa thổ tả khó cầm
ở trẻ em: Thêm biển đậu, hoắc hương, hoàng kỳ.
- Chữa tỳ vị hư nhược,
chán ăn, đầy bụng, thổ tả, tiêu hoá kém: Thêm trần bì.
- Chữa tỳ hư đàm trệ:
Thêm bán hạ, trần bì.
- Chữa tỳ vị khí hư,
hàn thấp, trệ đọng: Thêm bán hạ, trần bì, sa nhân, mộc hương.
- Trị hư tổn sinh lực,
nguyên khí bất túc: Bỏ bạch truật và phục linh, thêm hoàng kỳ, nhục quế.
- Trị tỳ vị hư nhược, tâm khí bất túc: Thêm
biển đậu, hoàng kỳ, sinh khương, đại táo.
Tứ quân tử thang cũng
được ứng dụng trong các nghiên cứu lâm sàng hiện đại để chữa các bệnh lý nội
khoa, phụ khoa và nhi khoa. Cụ thể là:
- Viêm loét đường tiêu
hoá: Thêm trần bì, hoàng kỳ, mộc hương. Bài thuốc này đã được dùng trị liệu cho
38 người mắc các bệnh như viêm dạ dày mạn tính hoặc cấp tính, loét đường tiêu
hóa, loét hành tá tràng, sa dạ dày.
- Xuất huyết đường
tiêu hóa trên: Thêm đương quy, trần bì, bạch thược, hoàng liên, địa du, đan
sâm, tam thất, bạch cập.
- Viêm ruột do nấm:
Thêm khổ sâm. Nếu nhiệt nặng thì thêm bạch đầu ông, xuyên hoàng liên; có khí hư
thì thêm hoàng kỳ; dương hư thêm phụ phiến, nhục quế; thấp nặng bổ sung ý dĩ,
trạch tả; bụng chướng thì thêm chỉ xác, hậu phác.
- Viêm gan mạn tính
hoạt động: Thêm hoàng kỳ, áp dụng điều trị cho 40 bệnh nhân có men gan cao,
HBsAg dương tính. Sau 4-5 tháng dùng thuốc, tất cả đều có chỉ số men gan trở
lại bình thường, 70% có kết quả xét nghiệm HBsAg âm tính.
- Đau đầu: Thêm hoàng
kỳ, chế phụ phiến; tuỳ từng trường hợp mà bổ sung các vị khác.
- Nôn mửa ở phụ nữ có
thai: Thêm bán hạ, trần bì, trúc nhự, tô ngạnh.
Một nghiên cứu khác
kết hợp Tứ quân tử thang với trần bì, bán hạ, tô ngạnh, kê nội kim và hương phụ
để trị liệu 52 ca, tất cả đều khỏi sau 1-5 tháng.
- Rong kinh, rong
huyết: Thêm hoàng kỳ, hương phụ, đan sâm và đương quy. Hiệu quả trị liệu là
95%.
- U xơ tử cung: Thêm
nga truật, tam lăng và ngưu tất. Hiệu quả điều trị sau 2 tháng dùng thuốc là
85%.
- Chán ăn ở trẻ em:
Một nghiên cứu của Trung Quốc đã phối hợp Tứ quân tử thang với tân dược chứa
kẽm để trị liệu cho 98 bệnh nhân. Đạt hiệu quả 100% sau khi uống 7-15 thang.
3/ Thành phần Bát trân thang (một
bài Bát trân thang khác)
Đương quy 10g Nhân sâm 3g
Xuyên khung 5g
Bạch linh 8g
Bạch thược 8g
Bạch truật 10g
Thục địa 15g
Cam thảo 5g
Cách dùng: nước sạch
hai bát, thêm sinh khương 3 lát, đại táo hai quả, sách đến 8 phần, uống trước
ăn.
Công dụng
Bổ ích khí huyết.
Chủ trị
Chữa chứng khí huyết
lưỡng hư: Sắc mặt trắng nhợt hay vàng nhạt, hồi hộp, ăn kém, chậm tiêu, đoản
khí, ngại nói, mệt mỏi, hoa mắt, chúng mặt, nhạt miệng, chất lưỡi bệu nhạt, rêu
lưỡi trắng mỏng, mạch tế mà hư.
Phương giải:
Trên lâm sàng nếu
không chỉ là huyết hư mà có cả khí hư thì khí huyết cùng bổ, thì dùng phúc
phương – bát trân thang do tứ quân tử thang và tứ vật thang kết hợp mà thành.
Đây đều là dạy người ta một phương pháp, một nguyên tắc, trên lâm sàng còn căn
cứ cụ thể vào sự cần thiết của bệnh chứng, trong phối ngũ điều chỉnh trọng tâm
bổ khí và bổ huyết. Do đó tên gọi tứ quân tử thang, tứ vật thang đều đưa ra một
vài ví dụ, giới thiệu quy luật biến hóa của nó hợp lại còn cần suy xét khí hư,
huyết hư vấn đề nào là chủ, nếu hai phương diện đều hư như nhau, thì cần khí
huyết cùng trọng.
Bát trân thang còn có hai phụ phương, một cái là thập toàn đại bổ hoàn (tôi đã đăng
trong bài thuốc số 5), một cái là nhân sâm dưỡng vinh
thang. Thập toàn đại bổ hoàn chính là bát trân thang thêm hoàng kỳ nhục
quế, đây chính là trong tình trạng khí huyết đều hư, tăng cường bổ khí ôn
dương, khiến dương sinh âm trưởng, khiến công năng của bổ huyết thêm mạnh, nên
nói là điều trị khí huyết đều hư mà thiên về hàn. Về nhân sâm dưỡng vinh thang
mà nói, qua bổ khí chú trọng bổ huyết. Phương tễ này có biến hóa chính là thập
toàn đại bổ hoàn bỏ đi Xuyên khung, ngoài ra thêm 3 vị là Viễn trí, Ngũ vị,
Trần bì gần giống với quy tỳ thang. Qua vấn đề này tôi muốn nói rõ phần dưới
hai điểm, thứ nhất, trong khí huyết hư mà không cần hòa huyết là lý ở đâu, đặc
biệt là doanh huyết hư mà trệ, là do huyết hư mà khí cũng hư, hiện nay có bổ
khí lại có bổ huyết, nên bỏ đi một vị phương hương mà hành huyết, bất lợi ở
xuyên khung bổ huyết. Do huyết hư, khí cũng hư, ở đây cũng có thuốc bổ khí,
ngoài nó còn có trần bì, như vậy cùng ý nghĩa với dị công tán, khiến bổ khí mà
không ủng, qua bổ khí mà hành khí. So sánh các vị thuốc này và xuyên khung tuy
đều là tân ôn, nhưng không táo, đồng thời trực tiếp nhập huyết. Vậy tại sao
nhục quế dùng ở đây? Ở đây liên quan đến 1 vấn đề, chính là trung y hay nói,
huyết là chỗ nào sinh thành. Trung y trong thực tiễn lần mò ra một kinh nghiệm
chính là làm sao “ biến hóa nhi xích thị vị huyết”, là thông qua trung tiêu,
tức sự hấp thu của tỳ vị, vận hóa của tỳ, lại thêm quan hệ dương của tâm thận
do đó ở đây nói dùng đến nhục quế, mới thêm Viễn trí, Ngũ vị. Từ lý luận trung
y, trung tiêu thụ khí thu trấp, đây là thông qua tinh hoa của tỳ vị hấp thu
thủy cốc mà nói, tức nhận tinh khí và tinh trấp của thủy cốc, đây là nguyên
liệu tạo máu. Khí và trấp của thủy cốc đều không màu đỏ, nhưng thông qua khí
hóa, biến hóa mà đỏ. Làm sao biến hóa được? chính là thông qua tác dụng khí hóa
của tâm, thận, mệnh môn. Do đó hiện nay phương tễ như vậy dùng điều trị các
loại thiếu máu hiệu quả khá tốt.
Vấn đề chủ yếu của bổ
huyết có hai trọng điểm, một là nguyên liệu, một là công năng, do đó bản thân
ăn uống vào không tốt, không có nguyên liệu tạo máu để hấp thu vào, trong tình
trạng như vậy, tuy là thiếu máu, nhưng đầu tiên phải kiện tỳ vị. Nếu như có thể
ăn, ăn muốn không giảm, ăn không kém, vẫn thiếu máu thì rõ ràng là có nguyên
liệu nhưng không thể vận hóa, như vậy khi điều trị thì cần xem xét là công năng
vận hóa của tỳ không được, hay là tỳ dương hư hoặc dương của tâm thận bất túc
gây ra.
Thập toàn đại bổ hoàn
và nhân sâm dưỡng vinh hoàn thì đơn giản. Về bát trân thang, khí huyết đều hư
thì khí huyết cùng bổ. Nhưng trong khi dùng cụ thể, cần xem đâu là chủ, thì lấy
thuốc nào làm chủ. Thập toàn đại bổ hoàn và nhân sâm dưỡng vinh hoàn, đặc biệt
là nhân sâm dưỡng vinh hoàn trong điều trị thiếu máu cơ năng, cùng sẽ là khi
công năng biến hóa không đủ, hiệu quả khá tốt.
Chậm kinh, trễ kinh,
rối loạn kinh nguyệt gây xáo trộn cuộc sống của chị em
Bài thuốc Nhân sâm Dưỡng Vinh Thang
Nguyên bản bài thuốc:
Nhân sâm dưỡng vinh
thang. (Đơn vị g)
Đương qui 12 Thục địa 20 Bạch thược 12
đẳng sâm 16 Bạch truật 12 Bạch
linh 12
Cam thảo 6 Hoàng kỳ 10 Nhục quế 6
Xuyên khung 8
Viễn chí 8
Táo 12
Sinh khương 8 Ngũ
vị 12 Trần Bì 8
Cách dùng và lượng
dùng: Thang sắc uống
Theo Hòa tễ cục
phương: đây là bài Thập toàn đại bổ thang bỏ Xuyên khung và thay vào đó thêm 3
vị là Ngũ vị tử, Trần bì, Viễn chí.
Với ý nghĩa đây là bài
thuốc kết hợp giữa các bài thuốc cổ Quy kỳ kiến trung thang, Linh quế truật cam
thang, Linh quế ngũ vị Cam thảo thang và Nhân sâm thang với các bài thuốc hậu
thế Tứ vật thang và Tứ quân tử thang có thêm Trần bì và Viễn chí, cho nên đây
là bài thuốc bồi bổ thể lực cho những người nước ứ dưới da, trong khí quản và
trong vị tràng nhiều nước ứ và do những thủy độc này mà cả khí lẫn huyết đều
hư, những người có thể chất hư nhược, bị các bệnh về đường tuyến, bị mệt mỏi,
thiếu máu, suy nhược và ăn uống không ngon miệng sau khi ốm dậy.
Thuốc còn được dùng
cho những người bị chứng chóng quên, mất ngủ, nôn mửa, đổ mồ hôi trộm, bí đại
tiện hoặc là có chiều hướng bị ỉa chảy, ngạt thở, ho vì da, đầu tóc thiếu dinh
dưỡng. Thuốc được ứng dụng trị các chứng viêm niêm mạc vị tràng, mất trương lực
dạ dày, giãn dạ dày, suy nhược sau khi ốm dậy hoặc sau khi đẻ, lao phổi, lao
ruột, sức khỏe giảm sút sau khi ốm dậy, người mệt mỏi rã rời, ăn uống không
ngon miệng, đổ mồ hôi trộm, chân tay lạnh, thiếu máu.v.v..
Bài thuốc Nhân sâm
Dưỡng Vinh Thang dùng trị 7 chứng: Rụng tóc, da mặt xỉn, chóng quên, chỉ uống
chứ không ăn, tim đập mạnh, mất ngủ, toàn thân cảm thấy khô, móng chân móng tay
khô, cơ bắp cứng. Giải thích: Theo Giải thích các bài thuốc chủ yếu hậu thế và
các tài liệu tham khảo khác: đây là bài thuốc bồi bổ thể lực dùng cho những
người cả tỳ lẫn phế đều hư, cả bộ máy hô hấp lẫn bô máy tiêu hóa đều bị bệnh,
thêm vào đó lại do lao lực, hư tổn, âm dương suy nhược, khí ở ngũ tạng khô,
nước bọt khô, suy dinh dưỡng, thiếu máu hoặc bị các chứng ác dịch chất, người
vô cùng mỏi mệt
Bài thuốc Nhân sâm
Dưỡng Vinh Thang dùng có hiệu quả cho những người tân dịch khô và bí đại tiện
hơn là những người ỉa chảy.
Lưu ý khi dùng thuốc:
Khi dùng cần phải chọn
lựa loại thuốc tốt bài thuốc mới có hiệu quả
Trong bài có vị Nhân
sâm phản với vị Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm chết
người- Tuyệt đối không được dùng chung với Lê lô
Bạch thược phản với vị
Lê lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm - không được dùng chung
với Lê lô
Cam thảo phản với vị
Hải tảo, Hồng đại kích, Cam toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy
hiểm, trừ trường hợp đặc biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng.
Sau đây, trân trọng giới
thiệu cùng bạn đọc những bài thuốc BÁT VỊ mọi người cùng quan tâm
a- BÁT VỊ THANG
Nguyên bản bài thuốc
Dương Thị Gia, Tàng Phương, Q.6. Dương Đàm
Ôn trung, trục hàn.
Trị tỳ vị hư hàn, khí không thăng giáng, bụng ngực đau như kim đâm, tạng phủ hư
thoát, tiêu chảy.
Vị thuốc:
Can khương (nướng)
…………80g
Đinh hương ….....................… 40g
Đương quy ….....................…. 40g
Mộc hương ……...................... 40g
Ngô thù du (tẩy nước 7
lần) … 80g
Nhân sâm …….........................40g
Nhục quế (bỏ vỏ) …………....
40g
Quất hồng ….....................….. 40g
Tán bột.
Mỗi lần dùng 20g. Thêm
nước 2 bát, sắc còn 1 bát, bỏ bã, uống ấm.
Lưu ý khi dùng thuốc:
• Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc
tốt bài thuốc mới có hiệu quả
• Trong bài có vị Nhân sâm phản với vị Lê
lô nếu dùng chung sẽ phát sinh chất độc nguy hiểm chết người- Tuyệt đối không
được dùng chung với Lê lô
• Vị thuốc Đinh hương kỵ với Uất kim, khi
dùng cần chú ý
• Vị thuốc Nhục quế kỵ thai, kỵ Xích thạch
chi, khi dùng cần chú ý
• Vị thuốc Can khương rất nóng nên kỵ
thai, có thai dùng thận trọng
b- BÁT BẢO THANG đặc
trị viêm họng hạt: Bài thuốc Gồm có 8 vị
1- Cây Dàn Xay (có cả
rễ càng tốt)- Trị được bá chứng, xuất phong nhập cốt,...
2- Dây Giang sẻ (còn
gọi dây Giang đất): Vị quân - Chủ trị Viêm họng hạt(không có vị thuốc này xem
như bài thuốc không có tác dụng). Trị được căn nguyên của bệnh.
3- Ké đầu ngựa: Kháng
dị ứng, tiêu độc,...
4- Kim ngân hoa: Dùng
loại tốt nhất, gồm có hoa 100%- Thanh nhiệt, hổ trợ tiêu viêm,...
5- Cây tra (có nơi còn
gọi Cây Rướng)- Dùng vỏ cây là tốt nhất: Thấp nhiệt, bài độc, tiêu viêm,...
6- Cây Bạch đồng nữ:
Có tác dụng trừ ho, tiêu đờm,...
7- Cây cỏ mực: Có tác
dụng bổ thận âm hư, điều hòa huyết áp,...
8- Cỏ cứt lợn: Lưu dẫn
thuốc.
Chú ý: Không được thay
thế vị thuốc nào trong 8 vị thuốc nói trên. Nếu thiếu một vị thì bài thuốc cũng
không hiệu nghiệm. (Bài thuốc chỉ có tính giới thiệu).
Có bài Bát bảo thang khác: Trị tạng độc, tiêu ra máu.
Vị thuốc:
Cam thảo .......... 2g
Chi tử ................10g
Hoàng bá .......... 10g
Hoàng cầm ..... 10g
Hoàng liên ........ 10g
Hòe hoa .............10g
Tế tân .................2g
Sắc uống lúc đói.
Lưu ý khi dùng thuốc:
- Khi dùng cần phải chọn lựa loại thuốc tốt bài
thuốc mới có hiệu quả
- Trong bài vị Tế tân rất nóng và có độc và phản
với vị Lê lô. cần chú ý liều dùng, không gia quá nhiều, và không dùng
chung với Lê lô
- Cam thảo phản với vị Hải tảo, Hồng đại kích, Cam
toại và Nguyên hoa, gặp nhau sẽ sinh phản ứng nguy hiểm, trừ trường hợp đặc
biệt phải xem xét thật kỹ mới dùng
·
Hoàng liên kỵ Thịt heo.
Nên kiêng khi uống thuốc hoặc dùng cách xa khi ăn trên 1 giờ.
c- Bài thuốc Bát Bảo Hồi Xuân Thang (Đông y Thiên Lương)
Công dụng:
Khư phong,
hòa Vị, hoạt huyết. Trị phong hư, đầu đau, mắt hoa, chóng mặt.
Vị thuốc:
·
Bạch thược ……….6g
·
Bán hạ …………… 2g
·
Cam thảo ……..… 1,6g
·
Can khương ……..1,6g
·
Đương quy ……… 1,6g
·
Hạnh nhân …….… 1,6g
·
Hoàng cầm ……… 1,6g
·
Hoàng kỳ …………3,2g
·
Hương phụ ……… 1,6g
·
Ma hoàng ……….. 1,6g
·
Nhân sâm ……….. 1,6g
·
Nhục quế ………... 1,6g
·
Ô dược …….……. 1,2g
·
Phòng phong ..….. 1,6g
·
phụ tử …………… 1,6g
·
Phục thần ………… 2g
·
Sinh địa …………..1,6g
·
Thục địa ………… 1,6g
·
Trầm hương ……..1,2g
·
Trần bì …………….1,6g
·
Xuyên khung ….... 1,6g
·
Xuyên ô …………. 1,2g
Sắc uống.
d- BÁT VỊ HOÀN trong
Hải Thượng y tông tâm lĩnh
1. Công thức bài thuốc
Thục địa 8 lạng Hoài sơn 4 lạng
Sơn thù 4 lạng Đơn bì 3 lạng
Bạch linh 3 lạng Trạch tả 3 lạng
Nhục quế 1 lạng Phụ tử 1 lạng
Bào chế, viên với mật
bằng hạt ngô đồng mỗi lần uống 60 – 70 viên lúc đói bụng, nấu nước muối làm
thang mà uống, uống xong một lúc thì ăn thức ngon chận lên.
2.
Phân tích bài thuốc và ý nghĩa của bài thuốc
Thục địa bổ thận, điều
tinh, sinh huyết, là thuốc thánh để bổ âm là đầu vị; Sơn thù vị chua vào can
thận, chủ đóng kín mà tính chua liễm hợp với nó, Sơn thù là ấm gan, đuổi phong,
cố tinh ích khí. Hai vị thục địa và sơn thù là chất nhu nhuận.
Bạch linh, Sơn dược
vào để giúp tỳ vị, khiến cho từ chỗ đó mà sinh ra hóa nguyên, và làm cho hậu
thiên phát triển mãi mãi ko cùng. Linh có thể vào tỳ, thấm được thấp nhiệt ở
trong tỳ mà thông với thận, giao với tâm, tác dụng của nó đều chủ về thông lợi
đỡ cho vị Sơn dược có tính trệ. Vả lại, sắc trắng thuộc kim, có thể bồi dưỡng
bộ phận phế lại có ý nghĩa “con hư thì bổ mẹ”. Sơn dược vị ngọt vòa tỳ mà bổ tỳ
yên được kẻ thù của thủy cho nên dùng làm thần và lại thanh hư nhiệt ở phế lại
hay cố tinh bổ thận. Đơn bì để trừ nhiệt nấp ở phần âm, còn tả được cả hỏa ẩn náu
của quan tướng, lương huyết lui nhiệt. Đơn bì là hỏa ở phương nam giống đực
không phải cái, thuộc dương, cho nên vào được thận, tả được âm hỏa, dẹp lui
được chứng nóng âm ỉ trong xương, không có mồ hôi, Đơn bì vào can, tác dụng chủ
yếu là tuyên thông để giúp Sơn thù là thuốc cố sáp. Trạch tả lợi tiểu tiện, để
thanh tướng hỏa, thông cái trệ của thục địa để dẫn các thuốc mau đến thận, có
bổ có tả mà không thích công phạt. Trạch tả để tả hỏa tà, nước đọng của long
lôi lại cùng phục linh thấm nhạt, chuyển vận các vị thuốc đi xuống. Trạch tả
Phục linh tính thấm tả chính là để cho máu khiến cho chóng thông xuống dưới,
thận âm không giũ được bốc cháy lên trên. Dùng Trạch tả tính mạnh để đưa phần
âm trong dương xuống. Trong bài bát vị, kiêm cả công lẫn bổ, đầy đủ cả âm
dương, vì không có dương thì âm không thể sinh sôi nảy nở được, cho nên các vị
Nhục quế, Phụ tử là loại thuốc cay nhuận, có thể bổ hỏa trong thủy, thủy hỏa
được nuôi dưỡng thì thận khí trở nguyên chỗ. Phụ tử là thuốc của cả tam tiêu,
cay nóng thuần dương lưu thông các kinh mạch, tính chạy mà không giữ lại, Nhục
quế là thuốc kinh thiếu âm, tuyên thông huyết mạch, tính cũng bốc, hai vị ấy
đều khó khống chế, cần được 6 vị kia là thứ thuần âm, vị hậu, nhuận hạ để khơi
thông đưa đường rồi mới dẫn xuống thận, tự nhiên sẽ không ngại chấn động lên
nữa.
Ý nghĩa của bài Bát
vị: phương này chữa chứng tướng hỏa không đủ, hư gầy khí kém, cho nên Vương
Băng cho rằng “Bổ ích nguồn chân hỏa để làm tiêu tan mây mù trong phần âm’,
mạch xích nhược thì dùng rất thích hợp.
3. Công dụng bài thuốc
Trị các chứng : mệnh
môn hỏa suy, tướng hỏa không đủ không sinh được thổ, đến nỗi tỳ vị hư hàn, hư
yếu, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện không rắn, rốn bụng quặn đau, đêm
đi đái nhiều, hoặc mạch hư nhược, thổ yếu thủy thắng, thiếu hỏa hao kém; hoặc
mạch rỗng ấn vào có lực, hoặc hỏa hư đờm thịnh, cùng với các chứng âm thịnh
cách dương, trong thực hàn mà ngoài giả nhiệt, nên nói rằng bổ ích cho nguồn
chân hỏa để tiêu tan mây mù trong phần âm là thế.
4.
Cách gia giảm bài Bát vị:
– Thận hư ỉa chảy,
kiết lỵ kéo dài gia Thăng ma, Phá cố chỉ, Ngũ vị; bội Linh, Trạch; khử Mẫu đơn
– Mạch bộ xích bên
phải vi tế mà phần dương kém quá bội Quế Phụ
– Mạch bộ xích bên
trái hồng sác mà phần âm quá thiếu thì bội Thục địa, hoặc chưng thành cao, hoặc
nấy trước đi.
– Mạch bộ quan bên
trái vô lực, can khí không đủ bội Sơn thù
– Mạch bộ quan bên
phải vô lực, tỳ vị kém, bội Linh Trạch; không có thấp trện thì giảm Linh
– Vị hỏa nhiều quá
sinh chứng phát vàng, sốt về chiều, miệng lở hay đói, khát nhiều, giảm trạch
tả, bội Đơn bì
– Can hỏa thịnh nóng
như nấu, ngọc hành đau, tiểu tiện ngắn xẻn, bội Thục địa, đơn bì
– Vị khí yếu, trung
khí hư hàn, dễ trướng dễ tiết, khử Mẫu đơn, bội Linh Trạch, Quế, phụ
– Đàn bà kinh bế,
huyết ít, có nhiệt, bội mẫu đơn, Thục địa; Hư hàn khử Đơn bì bội Phụ tử, Nhục
quế
– Táo khô có dương
không âm, khử Trạch tả, bội Thục địa, gia Mạch môn, Ngũ vị, Ngưu tất hay khát
uống nhiều bội Linh Trạch; không khát có nóng như nấu bội Đơn bì, khử Trạch tả,
dùng Linh tẩm sữa
- Cô dương bốc nổi
lên, vì thận hư không thu nạp đóng kín lại được, gia Ngưu tất Ngũ vị tử để giúp
sức cho Sơn thù vị chua có tính thu liễm
- Dương hư tinh tổn
gia Lộc Nhung, Hà xa đều là vị thuộc tính huyết hữu hình, để giúp công năng bổ
mạnh cho loài thảo mộc
– Thận hư không thu
nạp dược khí về nguyên chỗ là ra chứng hư trướng hư suyễn, nôn tức, khí nghịch
lên, thượng tiêu phần nóng, bội Ngưu tất để giúp sức cho Linh Trạch dẫn đi
xuống, gia Ngũ vị để giúp sức cho thu liễm lại
– Thận hư không bế
tàng được, khí hư dưới dồn chạy ngươc lên mà thành chứng thần tả(đi ỉa lúc mờ
sáng), gia Bổ cốt chỉ, Thỏ ty để bổ phần dương của tỳ thận, có tác dụng cho cả
tiên thiên và hậu thiên
– Âm dương đều hư,
nóng rét qua lại, giống sốt rét mà không phải sốt rét thì gia Sài hồ, lạnh
nhiều thì bội Quế phụ, nóng nhiều thì bội Đơn bì, khát thì gia Mạch môn Ngũ vị.
Bệnh mới mắc lúc đó nguyên khí chưa suy thì tạm gia Hy thiêm để khu tà, tà lui
rồi thì bổ ngay là tốt, nóng rét thì âm dương đều hư cả, không nên để lâu, vì
đuổi tà cũng là giúp chính khí
– Vừa mửa vừa ỉa, âm
dương kiệt quệ, mửa nhiều có phù nhiệt bốc lên thì bội Đơn bì, gia Ngũ vị để
thu lại, tả nhiều thì bội Linh Trạch để thấm đi, lại bội Ngũ vị, Cố chỉ để thu
lại, đóng lại, gia Mạch môn (sao gạo), Ngũ vị (sao mật). Vong âm, trung tiện
luôn (khí là dương, dưới không có âm đóng kín mà thoát ra, cho nên vong dương,
cũng gọi là vong âm) gia Thăng ma để đưa lên, Cố chỉ để đóng kín lại.
– Chứng hư bĩ giả đầy
trướng, giả tích khối, khử Mẫu đơn, bội quế phụ, gia Ngưu tất, Ngũ vị
– Chứng hư lâu ngày,
đau bụng liên miên gia Ngô thù ,Tiểu hồi
– Thận hư đau sán khí
gia Xuyên luyện Quất hạch, Ngô thù, Hoàng bá sao đen, khử Phụ tử
– Đờm dãi vít lấp,
thủy hư thì khử Phụ, hỏa hư thì Thục địa sao khô mà dùng
– Các chứng phát sốt
của trẻ em khử Quế phụ, gia Mạch môn Ngũ vị, có nóng rét gia Sài hồ Bạch Thược,
kinh giật gia Quy thược, Tần giao, Câu đằng. Hư trướng thì dùng Quế chút ít.
Các chứng trẻ em hư hàn khử Phụ; quyết lạnh dương thoát lại nên dùng Phụ; nếu
hỏa hư kém cả âm huyết hư thì nên dùng quế khử phụ
– Trẻ em nhiệt uất đau
bụng đi ỉa như rót khử Quế phụ, giảm Thục địa sao khô bội Trạch tả, gia Thăng
ma, khát nhiều gia Mạch Môn, Ngũ vị
– Trẻ em hư nhiệt phát
ban khử Quế Phụ, bội Đơn bì, gia Quy thược
– Đàn bà huyết khô
kinh bế người gầy đen, tóc ngắn, tính nóng nẩy, hay đau bụng trước khi hành
kinh, khát uống nước luôn, đau lưng, sốt về chiều hầm hập, khử Phụ giảm bớt
lượng Quế, Trạch; bội Sơn thù, gia Quy Thược, Đỗ trọng sao rượu
– Đàn bà có chứng Bạch
đới thì khử Phụ, bội Trạch tả, có đau mà trệ xuống gia Thăng ma, không thì gia
Phá cố chỉ.
Đó là cách dùng tá sứ
thỏa đáng thì có thể hợp chung thành một tễ để giúp thêm thành công.
5. Phép dùng thang tống Bát vị hoàn
– Dùng nước muối nhạt
làm thang tống, là vì muối nhuận xuống, làm mềm chất rắn, có hư hỏa thì dẫn
xuống
– Dùng nước lã đun sôi
làm thang tống là vì nó không nhanh không chậm không nóng không ráo
– Dùng nước cơm sôi
làm thang tống là vì nó là chân vị điềm đạm của tỳ, rất chóng sinh ra tinh, có
ý nhân bổ thận mà bổ tới cả tỳ
– Dùng rượu nóng làm
thang vì nó dẫn sức thuốc đi rất nhanh, mùa đông có thể ngăn được hàn tà, từ
bên ngoài
– Dùng bài Bổ trung
làm thang tất vì có chứng nguyên khí hãm xuống, đã muốn bổ nguồn gốc lại sợ
thuốc chạy xuống thái quá, trên hư dưới thực, nên phải đưa trung khí lên, để
cho nguyên khí ở tam tiêu còn mãi
– Dùng bài Lý trung
làm thang, tất vì tỳ vị trầm hàn nên trước phải điều lý tủng châu rồi mới thông
xuống được
– Dùng bài Sinh mạch
làm thang là vì kim sinh thủy làm cho mẹ con nuôi nhau, khí của phế dồn xuống thận
làm vệ khí lại dẫn được xuống hai tạng kim và thủy để sinh âm
– Dùng bài Quy tỳ làm
thang là muốn cho tiên thiên thủy hỏa, hậu thiên khí huyết đều được tự nhuận
– Dùng nhân sâm Trần
mễ làm thang là để cho dẫn xuống tỳ thận mà sinh dương khí
Cách dùng thang tống
như đã kể trên để chiêu thuốc hoàn đều là vì bệnh cấp không thể để dây dưa,
tiêu bản đều phải chiếu cố tới cả, cho nên phải mượn khí mạnh của thuốc sắc để
làm công trước mở đường, vận tống thuốc hay của thủy hỏa nạp xuống đan điền, để
giũ cho nguyên dương được vững chắc mãi, công dụng của thuốc sắc vừa đi qua thì
tính của thuốc hoàn lại nảy sinh tác dụng, từ căn bản cho đến tam tiêu, cứ còn
mãi mãi khí dương hòa ý nghĩa rất sâu xa
6. Sự cấm kỵ của bài Bát vị
– Có người dùng Hà thủ
ô làm đầu vị trong bài này thì một bài thuốc hai đầu vị biết theo bên nào?
– Hoặc có khi phối hợp
với Sâm kỳ thì thuốc bổ thận chạy vào âm kinh, thuốc bổ khí chạy về dương phận
mà hay bên giằng giữ nhau ko yên được chỗ, lại quấy rối, khích động hư dương
bốc lên không gì dẫn về kinh được
– Hoặc có người dùng
Táo, Quy Truật để kiêm chữa cả tâm tỳ. Nào có biết rằng Thục địa bổ tinh huyết
càng phải nhờ Sơn thù vị chua, chát để giữ vững lại. Còn như Quy cay mà chạy
vào phần dinh là thuốc của phần huyết mà không phải là thuốc của phần tinh,
chua thì thu, cay thì tán rất khác nhau xa, huyết với âm tinh đều nên phân biết
cho rõ. Vả lại trong bài lục vị, bát vị đều có đủ cả âm dương khiến cho thủy
hỏa hun nấy gây thành tinh huyết. Bạch truật có công năng làm cho khô cho ráo,
chạy riêng vào tỳ vị, gia vào đó thì lại làm cho hao kém mất sức hun nấu, chân
âm còn nhờ vào đâu mà sinh ra được. Còn như Táo nhân là thuốc phần khí của
thượng tiêu tâm tỳ, không phải là thuốc thích hợp với tinh huyết ở thận
– Hoặc thêm vị như Câu
kỷ, Phúc bồn, Liên nhục….có sức chậm chạp, nếu thêm một vị càng hãm lại một
phần, khó kiến hiệu nhanh.
– Hoặc thêm vị Tiên
mao tuy có sức mạnh, nhưng bẩm tính không giống nhau thì ở cùng đội ngũ sao
được, mỗi bên đều cậy có sức mình, làm rối loạn phép thường.
– Hoặc gia Bào khương,
Chích thảo là thứ thuốc chữa trung tiêu, không thể xuống dưới được. Vả lại Thục
địa khí nhuận ngọt ấm, là thuốc nhuần bổ chân âm, bỏ lẫn vào thuốc cay nóng, ấm
trung tiêu thì chẳng những mất hết tính nhu nhuận, mà vị Thục địa cũng không
còn chút sức nào nữa. Cho nên bài Địa hoàng hoàn xưa nay không ai gia thêm
Khung, Quy, Khương, Thảo là vì thế.
Cuối cùng, chúng ta
cùng nghe “BẮC KIM THANG” nhé. Cứ
tưởng bài thuốc, hóa ra không phải.
Bắc Kim Thang là bài đồng dao gần
như gắn liền với tuổi thơ của mỗi người Việt Nam bởi ca từ dễ nhớ và âm điệu
vui nhộn. Nhưng chúng tôi [ATABOOK] tin rằng không nhiều người hiểu được hết
nội dung và ý nghĩa sâu xa của bài đồng dao này. Có hai quan điểm phổ biến giải
thích về ý nghĩa bài Bắc Kim Thang:
1. Ý kiến thứ nhất là từ ông Nguyễn
Hữu Thiệp (An Giang) đưa ra trong Hội thảo khoa học tại trường Đại học Cần Thơ
năm 2003. Theo đó, Bắc Kim Thang phải có tên chính xác
là Bắt Kim Than (tức là Bắt con ngựa màu nâu sậm).
Cụ thể, bài hát này nguyên gốc phải là:
Bắt Kim Than, cà lang
bí rợ
Cột quai chèo, chèo qua chèo lại
Bắt ngựa ô, chạy vô vườn mít
Hái lá mít, chùi đít ngựa ô.
Cột quai chèo, chèo qua chèo lại
Bắt ngựa ô, chạy vô vườn mít
Hái lá mít, chùi đít ngựa ô.
Theo ông Thiệp, đây vốn là bài đồng dao
mà các em nhỏ Nam Bộ ngày trước sử dụng khi chơi trò khoèo chân, vừa chơi vừa
hát.
2. Ý kiến thứ hai là từ ông Ngọc Thạch đưa ra dựa vào câu chuyện cổ tích của một cụ bà khoảng 80 tuổi mà ông nghe được trong chuyến công tác Long Xuyên năm 2008. Theo đó, Bắc Kim Thang bắt nguồn từ câu chuyện cảm động về tình bạn giữa một anh bán dầu và một anh bán ếch. Chuyện kể như sau (trích nguyên văn):
“Ngày xửa ngày xưa, ở một làng quê nọ, có hai người bạn làm nghề buôn bán cùng nhau. Một người đi soi đèn bắt ếch về đêm, còn anh kia thì chuyên đi bán dầu thắp đèn vào rạng sáng. Nhà họ dựng trên một cù lao nhỏ ven sông, tách biệt với làng xóm, muốn đi vào chợ làng phải đi ngang một cây cầu khỉ vắt vẻo. Do hoàn cảnh đơn chiếc, nên hai anh cũng thân thiết với nhau. Có lần vì mẹ già của anh bán ếch bệnh mà không có tiền chạy chữa nên qua đời, anh bán dầu liền bỏ tiền ra giúp đỡ ma chay mà không hề tính toán, vì thế mà anh bắt ếch càng quý trọng tình bạn của anh bán dầu.
Một đêm nọ, trong lúc đi làm việc, anh
bắt ếch nghe tiếng kêu thảm thiết phát ra từ một cái bẫy trên đồng. Tính tò mò,
anh lại mở ra coi thì phát hiện ra hai con chim le le và bìm bịp nằm trong bẫy,
do chúng giành ăn với nhau mới bất cẩn rơi vào bẫy của con người. Hai con
chim ra sức năn nỉ anh bắt ếch mở bẫy tha cho mình, rồi hứa sẽ đền ơn báo đáp.
Vốn là người có tính nhân từ, anh bắt ếch cũng xuôi lòng rồi giải thoát cho
chúng.
Vài ngày sau, hai con chim cùng bay đến
nhà anh bắt ếch để cảnh báo cho anh biết tai ương sắp đến. Chúng nghe được hai
con ma da ở sông bàn với nhau rằng sẽ kéo chân anh bán dầu và anh bắt ếch, cho
hai anh chết, thế mạng cho chúng để chúng được đầu thai. Vì hai con ma này
chết đã lâu, nếu trong 7 ngày không bắt được người thay thế sẽ bị hồn phách tứ
tán, không được đầu thai nữa. Thêm vào đó, ma da cũng chỉ có thể bắt hai anh
khi trời vừa rạng sáng, lúc anh bán dầu ra chợ và lúc anh bắt ếch về nhà, bởi
vì khi mặt trời lên thì chúng không còn ma phép.
Ban đầu anh bắt ếch đem cớ sự nói anh
cho bán dầu nghe, khuyên anh nên ở nhà, nghỉ bán một tuần lễ, nhưng anh bán dầu
lại không tin, cho rằng đấy là mê tín vớ vẩn, trên đời không có ma,
quỷ. Theo lời le le và bìm bịp, anh bắt ếch viện cớ đến ngày cúng mẹ, gọi
anh bán dầu qua nhà tiệc tùng ăn nhậu, chuốc cho anh say mèm đến mức sáng hôm
sau không ra chợ bán được. Ngày kia lại lấy cớ sang nhà cảm ơn anh bán dầu đã
giúp đỡ, lại bày tiệc ăn uống no say, trì hoãn việc đi ngang cây cầu
kia. Hôm ấy là ngày cuối cùng của thời hạn 7 ngày ma da bắt hồn, do say
xỉn nhiều ngày liền nên anh bắt ếch ngủ quên. Anh bán dầu sực tỉnh vào sáng
sớm, nhận ra mình đã bỏ buôn bán mấy ngày liền bèn nhanh chóng quẩy hàng ra
chợ. Do bước vội vàng qua cầu khỉ cheo leo, lại bị bọn ma da biến phép cho
cầu trơn trượt nên sẩy chân rơi xuống nước mà chết. Anh bắt ếch vì tiếc thương
bạn nhưng do còn sợ bọn ma da nên phải đợi hết một ngày sau mới dám vớt xác bạn
lên mà làm ma chay. Thấy ân nhân của mình đau lòng, le le và bìm bịp cũng
bay đến, cất tiếng kêu thảm thiết như tiếng kèn trống đám ma để tiễn biệt một
người chết oan.”
Chú bán dầu, qua cầu mà té. Đọc hết truyện cổ
tích này thì có lẽ mọi người đều sáng tỏ vì sao trong bài Bắc kim thang có
4 câu cuối là:
Chú bán ếch, ở lại làm chi.
Con le le đánh trống thổi kèn,
Con bìm bịp thổi tò tí te tò te.
Câu chuyện cổ tích trên thực chất là
nhằm đề cao tình bạn và tính chất cứu vật vật trả ơn của người xưa. Thế nên vấn
đề truy tìm nguồn gốc từ - ngữ chủ yếu nằm ở hai câu:
Bắc kim thang, cà lang
bí rợ
Cột qua kèo, là kèo qua cột.
Cột qua kèo, là kèo qua cột.
Ở câu đầu tiên, cà, lang, bí rợ là để chỉ cho 3 loại củ, quả có cùng một đặc tính là thuộc họ dây leo, trái cà, khoai lang và bí rợ. Đặc biệt với từ bí rợ, là một từ thuần chất của miền Nam, cũng đã nói lên xuất xứ của bài đồng dao này là từ miền Tây Nam bộ.
Riêng về từ kim
thang” ở đây cần được hiểu là cái thang hình chữ KIM (金), tức có hình tam giác cân. Cái kim thang của trẻ em ngày
trước là do người lớn dùng hai thanh tre dài, bắt chéo vào nhau tạo thành một
hình tam giác cân rồi cắm trên mặt đất, cách vài mét lại đặt một cái như vậy,
tạo thành một hàng dài. Bản thân của cái kim thang này trở
thành một cái cột (vì không có cây cột dựng đứng giữa nên hai thanh tre chéo
vào trở thành cột luôn). Những cái kim thang được nối vào nhau
bởi cái “vì kèo” là những thanh tre chạy dọc theo giàn, cứ như thế tạo thành
một giàn cốt là để cho cà, lang, bí rợ leo lên mà sinh sôi, phát triển.
Do đó câu “cột qua kèo, kèo qua cột” nhằm chỉ mối quan hệ gắn bó vào nhau của hai vật thể, tức giữa kèo và cột. Cả câu “bắc kim thang, cà lang bí rợ, cột qua kèo, là kèo qua cột” nhằm làm rõ thêm mối quan hệ keo sơn, gắn bó của anh bán dầu và anh bán ếch ở bốn câu sau như đã phân tích từ câu chuyện cổ tích ở trên.
Do đó câu “cột qua kèo, kèo qua cột” nhằm chỉ mối quan hệ gắn bó vào nhau của hai vật thể, tức giữa kèo và cột. Cả câu “bắc kim thang, cà lang bí rợ, cột qua kèo, là kèo qua cột” nhằm làm rõ thêm mối quan hệ keo sơn, gắn bó của anh bán dầu và anh bán ếch ở bốn câu sau như đã phân tích từ câu chuyện cổ tích ở trên.
Cuối Siter, mời các bạn nghe bài hát trẻ thơ Bắc kim thang, nhạc thiếu nhi
sôi động cho bé, cũng là an ủi những ai, sinh một bề - “Toàn con gái”. Chúc cả nhà vui vẻ.
Sưu tầm, tập hợp,
chỉnh sửa từ các trang WEB liên quan. Mời xem V-Clip
https://bit.ly/2Xs0CUf
Con xin chào Lương y ạ. Lương y cho cho hỏi là bài BÁT TRÂN mà thêm ÍCH MẪU có thêm tác dụng gì ạ ? Con cám ơn Thầy rất nhiều ạ.
Trả lờiXóa